This is an example of a HTML caption with a link.

Sunday, June 21, 2015

Họ, hụi, biêu, phường và những quy định của pháp luật bạn cần biết

Hụi là gì ?
Hụi (hay còn gọi là “họ”) là một hình thức huy động vốn theo kiểu quan hệ vay mượn tài sản/tiền trước rồi trả sau - giữa một nhóm người với nhau. Chơi hụi khá phổ biến trong đời sống người Việt và đã có từ rất lâu. Không hiểu vì sao và từ bao giờ, người ta hay nói là “chơi” hụi. Tất cả những người tham gia chơi hụi với nhau sẽ tập hợp thành một “dây hụi”, mỗi thành viên là một “hụi viên”, người đứng ra tổ chức, điều hành, quản lý và thu tiền gọi là “chủ hụi”.Mặc dù có thể có sự khác biệt đôi chút mô hình và hình thức chơi hụi, nhưng về cơ bản, có thể mô tả về mô hình một dây hụi như sau:Giả sử có 10 người là ông Một, bà Hai, ông Ba, bà Bốn … và 10 người này cùng tham gia chơi hụi với nhau, tạo thành một dây hụi.

Sau mỗi một chu kỳ cố định về thời gian ( thường là tháng hoặc tuần, có khi là ngày), chẳng hạn là đầu tháng, những người chơi hụi sẽ có nghĩa vụ đóng tiền ( gọi là tiền hụi) cho người chủ hụi.
Bài viết liên quan: 
Khởi kiện vụ án dân sự những điều cần biết
Số tiền đóng hụi là bao nhiêu do các hụi viên thống nhất từ trước khi chơi. Chẳng hạn là mỗi tháng đóng 1 triệu đồng. Khi đó, dây hụi này sẽ là “hụi tháng, 1 triệu đồng”. Với 10 người tham gia như trên, mỗi tháng chủ hụi sẽ thu vào được 10 triệu đồng. Thời gian đóng tiền sẽ là 10 tháng – tương ứng với 10 người. Mỗi tháng, số tiền hụi thu vào sẽ giao cho một người - gọi là người “hốt hụi” trong tháng. Những người đã hốt hụi xong thì trở thành “hụi chết”.Và sẽ lần lượt từng người hốt hụi cho đến khi tất cả đều hốt hụi xong. Khi đó xem như kết thúc cuộc “chơi hụi”.

Ví dụ: 10 người nói trên, tháng thứ nhất ông Một là người hốt hụi. Như vậy, ông Một sẽ nhận 10 triệu đồng ( trong đó có 1 triệu đồng do chính mình góp và 9 triệu đồng do các thành viên còn lại đóng vào). Qua tháng 2, bà Hai là người hốt hụi, cũng sẽ nhận 10 triệu đồng ...vv.
Nếu quan sát kỹ trường hợp ông Một sẽ thấy như nhau: khi tham gia vào dây hụi, dù chỉ bỏ ra 1 triệu đồng ở tháng thứ nhất, nhưng ông đã được nhận ngay 10 triệu đồng. Số tiền 10 triệu đồng này có thể xem như ông đã “vay” trước của những người còn lại trong dây hụi. Sau đó hàng tháng ông đóng “hụi chết” 1 triệu đồng, đóng đủ 9 tháng và xem như đang “trả góp” cho 9 người kia số tiền mà mình đã vay (khi hốt hụi).
Ví dụ như trên là dạng “đơn giản hóa” để dễ hình dung. Thực tế không hẳn là cứ tới đầu tháng thì ai cũng phải đóng 1 triệu đồng, mà sẽ căn cứ vào kết quả “khui hụi” (hay còn gọi là “mở hụi” hàng tháng.
Vậy khu hụi là thế nào ? Vào mỗi kỳ đóng tiền hàng tháng, người chủ hụi sẽ tiến hành việc “khui hụi” bằng cách mời các hụi viên chưa hốt hụi tham gia “bỏ hụi” – giống như hình thức một cuộc đấu giá vậy. Hụi viên nào muốn có tiền (hốt hụi) trong tháng đó thì sẽ tham gia vào việc đấu giá về tiền lãi. Người nào đưa ra giá bỏ hụi cao nhất sẽ được xem là thắng và có quyền hốt hụi tháng đó.
Theo ví dụ trên, giả sử tới tháng thứ năm, ông Bảy và bà Tám đều muốn hốt hụi nên cùng tham gia bỏ hụi. Ông Bảy ghi vào tờ phiếu của mình là “50 ngàn đồng”, còn bà Tám ghi “60 ngàn đồng”. Khi người chủ hụi mở hai tờ phiếu, thấy tờ phiếu của bà Tám ghi số tiền cao hơn. Như vậy, bà Tám là người thắng, được hốt hụi trong tháng đó.
Khi đó, vì bà Tám ghi “60 ngàn đồng”, nên xem như bà Tám phải trả số tiền này cho các hụi viên chưa hốt hụi còn lại. Vì đây là tháng thứ năm, nên đã có 5 hụi viên hốt hụi, còn lại 5 người “hụi sống”. Bà Tám sẽ phải trả thay cho 5 người này - mỗi người 60 ngàn đồng. Tức là thay vì phải đóng đủ 1 triệu đồng, thì 5 người này sẽ chỉ phải đóng 940.000 đồng. Số tiền 60 ngàn đồng chính là số tiền lời của những người chưa hốt hụi.
Như vậy, có thể thấy người nào càng chậm hốt hụi thì sẽ càng có nhiều tiền lời, càng được lợi. Trong khi đó, những người hốt hụi trước thì sẽ không được tiền lời, mà sẽ phải đóng “hụi chết” mỗi tháng, tức đóng đủ 1 triệu đồng.
Việc chơi hụi như trên có thể nói là khá phổ biến trong cả nước, nhất là ở các đô thị lớn như TP.HCM, lan cả vào các cơ quan, doanh nghiệp.
Trên thực tế, có nhiều người thậm chí sống bằng nghề làm chủ hụi – kiếm tiền từ số tiền lời - còn gọi là “tiền thảo”, “tiền sâu” - được trích ra từ tiền bỏ hụi của các hụi viên trong tháng. Số “tiền thảo” thường có giá trị bằng khoảng 50% số tiền lãi mà hụi viên bỏ hụi phải trả trong kỳ. Chẳng hạn như ở ví dụ trên, số tiền 60 ngàn đồng thực chất sẽ được chia cho người chủ hụi hưởng 30 ngàn đồng.
Có lợi, nhưng cũng rất rủi ro


Qua mô hình chơi hụi như ở trên, nếu nhìn theo phương diện tích cực, có thể nói về bản chất việc chơi hụi khá hay, tạo điều kiện để các cá nhân có thể có được một số tiền lớn vay từ những người cùng tham gia, thay vì phải đi vay của ngân hàng, lại không cần thủ tục phiền phức gì cả. Hình thức góp, trả cũng đơn giản, nhẹ nhàng, thuận tiện.
Bản thân tôi cũng đã từng chơi hụi và nhờ chơi hụi (chơi một lúc 2 dây hụi khác nhau) mà tôi có điều kiện huy động được một số tiền kha khá, để … xây nhà (cấp 4)!
Tuy nhiên, có thể khẳng định là chơi hụi có tính rủi ro rất cao. Thậm chí rất rất cao – nếu rơi vào các trường hợp như phân tích dưới đây.
Trước hết, có thể thấy việc chơi hụi, sự liên kết giữa các thành viên tham gia hoàn toàn mang tính “tín chấp”, tin tưởng nhau là chính mà không có tài sản thế chấp, bảo đảm. ( Hãy hình dung Ngân hàng chỉ cho vay vài chục triệu đồng đã đòi thế chấp nhà, giữ bản chính giấy tờ nhà).
Dây hụi thực chất là một “vòng dây xích” hình tròn, mỗi thành viên tham gia chính là một mắt xích. Chỉ cần một mắt xích bị đứt (không đóng tiền hụi) thì sợi dây xích sẽ bị đứt, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của những người chưa hốt hụi. Ràng buộc đến trách nhiệm của người chủ hụi…vv. Trường hợp như vậy người ta vẫn hay gọi là “bể hụi”.
Hãy hình dung dây hụi nêu ở ví dụ trên, chẳng hạn đến tháng thứ ba, bất ngờ một hụi viên không còn khả năng đóng hụi nữa. Khi đó, dây hụi chỉ còn có 9 người đóng tiền, nên thay vì thu được 10 triệu đồng thì sẽ chỉ còn 9 triệu đồng. Việc thiếu 1 triệu này sẽ giải quyết thế nào ? Mà về nguyên tắc là phải bù vào. Nhưng lấy tiền ở đâu, lấy của ai mà bù vào đây? Qua các tháng sau, dây dụi sẽ tiếp tục bị thiếu 1 triệu đồng. Chỉ cần các thành viên chơi hụi khác biết được, và/hoặc người hụi viên khó khăn “bỏ trốn” chẳng hạn, thì khi đó mọi người sẽ có cảm giác vô cùng náo loạn, mất bình tĩnh.
Tâm lý đó sẽ “lây nhiễm” qua những người khác, làm cho mọi người đều cảm thấy không an tâm để tiếp tục đóng tiền vào dây hụi, vì sợ rủi ro. Lúc này sẽ dẫn đến cảnh người chủ hụi hoặc là phải đến nhà hụi viên dùng “biện pháp mạnh” để đòi tiền (tiền đóng hụi) hoặc chính người chủ hụi phải tự bỏ tiền túi ra đóng thay cho con hụi để duy trì dây hụi (nhưng khả năng này hầu như là rất thấp và chỉ đối với số tiền nhỏ) hoặc là chủ hụi phải … bỏ trốn !
Nhưng rủi ro không phải chỉ có vậy. Nguy hiểm nhất là trường hợp nhiều người tham gia vào dây hụi do chủ hụi tổ chức mà những người chơi thậm chí không biết mặt nhau, không biết có bao nhiêu người chơi, thật giả lẫn lộn. Không loại trừ khả năng người chủ hụi, vì mục đích xấu, đã làm ra những dây hụi ma (không có thật), hoặc ghi khống, tăng giảm số tiền đóng hụi, thời gian đóng hụi. Chẳng hạn có 10 người chơi thì nói là 20 người, số tiền đóng là 1 triệu/tháng thì nói là 3 triệu/tháng, giấy tờ sổ sách không rõ ràng, sau khi thu tiền, thay vì giao cho người hốt hụi trong tháng thì thực sự … không có ai cả. Sau khi gom tiền được vài tháng, chủ hụi … hô biến.
Những trường hợp như vậy, người chơi hụi xem như đã trở thành nạn nhân của sự lừa đảo hoặc sự nhẹ dạ, chủ quan của chính mình. Mà việc giải quyết tranh chấp thì không hề đơn giản, giấy tờ chứng cứ mơ hồ ( nhiều khi người chơi hụi không có đến 1 tấc giấy trong tay !).

Pháp luật không cấm chơi hụi

Việc tham gia chơi hụi thực chất là một loại giao dịch dân sự (quan hệ vay mượn tiền theo thỏa thuận) giữa các cá nhân với nhau.


Năm 2005, Bộ luật Dân sự được bổ sung sửa đổi đã lần đầu tiên có quy định về hoạt động chơi hụi. Theo đó, việc chơi hụi được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

Điều 479 Bộ luật Dân sự 2005 quy định như sau:
1. Hụi ( hay còn gọi là họ, biêu, phường) là một hình thức giao dịch về tài sản theo tập quán trên cơ sở thoả thuận của một nhóm người tập hợp nhau lại cùng định ra số người, thời gian, số tiền hoặc tài sản khác, thể thức góp, lĩnh họ và quyền, nghĩa vụ của các thành viên.
2. Hình thức hụi nhằm mục đích tương trợ trong nhân dân được thực hiện theo quy định của pháp luật.
3. Nghiêm cấm việc tổ chức hụi dưới hình thức cho vay nặng lãi.
Cuối năm 2006, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 144/2006 quy định rõ hơn về các nguyên tắc và điều kiện tổ chức chơi hụi được xem là hợp pháp.
Như vậy, chơi hụi không bị cấm, không bị xem là hành vi vi phạm pháp luật. Về nguyên tắc, mọi người có thể và có quyền chơi hụi để có được lợi ích cho mình.
Tuy nhiên, chính vì việc chơi hụi có tính rủi ro rất cao, nên tốt nhất là chỉ nên chơi hụi khi bảo đảm tính an toàn và nằm trong khuôn khổ của pháp luật quy định. Có như vậy, mới có thể tránh hoặc chí ít là hạn chế tối đa những rủi ro/hậu quả đáng tiếc có thể xảy ra.
Trên thực tế, đã có biết bao nhiêu trường hợp nhà tan cửa nát, các vụ giật hụi, bể hụi với số tiền lên đến hàng trăm triệu, hàng tỷ hay thậm chí hàng chục tỷ đồng đồng. Đó là những bài học kinh nghiệm và nhãn tiền mà mọi người cần lưu ý, trước khi quyết định có nên tham gia vào một dây hụi hay không.

Chỉ nên chơi hụi khi thấy rõ sự an toàn

Hụi an toàn, nói một cách đơn giản, là không tiềm ẩn hay có các yếu tố rủi ro, mờ ám như đã nói ở trên. Hoặc là phải có cách làm rõ, khắc phục và hạn chế những yếu tố rủi ro đó.
Trước hết, khi tham gia chơi hụi, người chơi cần hiểu rõ quy định của pháp luật về chơi hụi, hiểu rõ bản chất của mô hình chơi hụi.
Và, người chơi hụi cần lưu ý những điều sau:
- Chỉ tham gia vào dây hụi do người chủ hụi có độ tin cậy cao tổ chức. Việc này không chỉ đánh giá qua bề ngoài hào nhoáng, ăn to nói lớn, nhà to cửa rộng… Mà phải xem đến uy tín, nhân thân, thậm chí gia đình của người chủ hụi.

- Nhất thiết phải biết rõ, thậm chí chọn lựa những người cùng tham gia chơi hụi đang làm việc ở đâu, nguồn thu nhập như thế nào, phải có khả năng tham gia lâu dài và đóng hụi đầy đủ. Nên nhớ có không ít trường hợp hụi viên vừa hốt hụi xong là bỏ trốn không tiếp tục đóng hụi nữa gây thiệt hại và ảnh hưởng đến các thành viên chơi hụi khác.
- Việc chơi hụi nhất thiết phải có sổ sách rõ ràng, chứng từ đầy đủ, chính xác và chi tiết về diễn biến của dây hụi. Ngoài số liệu tiền bạc, ngày tháng, chủ hụi và các thành viên nên lập thành văn bản thỏa thuận về việc chơi hụi, có điều khoản quy định rõ về chu kỳ đóng tiền, số tiền đóng, hình thức thanh toán, trách nhiệm của chủ hụi, quyền và nghĩa vụ của các hụi viên, vấn đề giải quyết tranh chấp … - tóm lại là như một bản hợp đồng vay mượn tiền của nhau. Ngoài ra còn phải có sổ phụ cấp cho các hụi viên…. Đây là những chứng cứ hết sức quan trọng, và là cơ sở để Tòa án xem xét, giải quyết khi xảy ra tranh chấp, bể hụi…
- Khi xảy ra tranh chấp về hụi, các bên nên chủ động chấm dứt dây hụi, thương lượng, hòa giải với nhau, có thể lập thành bản thỏa thuận mới theo hướng chốt nợ, đưa ra thời điểm trả nợ …vv. Nếu không hòa giải, thương lượng với nhau được thì người bị thiệt hại nên khởi kiện ra Tòa án, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Để biết rõ hơn quy định của pháp luật liên quan đến việc chơi hụi, xin mời quí vị xem thêm bài viết giới thiệu về Nghị định 144/2006 với tên gọi “Quy định về việc chơi hụi”, có thể xem như là phần tiếp theo của bài viết này.

Luật sư TRẦN HỒNG PHONG
Theo: http://ecolaw1.blogspot.com/

Thursday, June 18, 2015

Cơ quan thi hành án dân sự không hiểu Luật thi hành án dân sự?

Câu chuyện mà tác giả muốn chia sẻ với Quý độc giả là một câu chuyện có thật liên quan đến việc Tòa án và cơ quan thi hành án dân sự lúng túng khi áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong khi những quy định của pháp luật liên quan đã quy định rõ ràng.
Bài viết liên quan:
>>> Công lý đã được thực thi
Sự việc bắt đầu từ tranh chấp hợp đồng vay tiền của ông Hà Ngọc S đối với bà Hồ Thị M, cụ thể bà M có cho ông S vay số tiền 50.000.000 đồng với thời hạn 30 ngày nhưng khi hết thời hạn vay ông S không trả cho bà M, vì vậy bà M đã khởi kiện ông S ra Tòa án nhân dân thành phố V để yêu cầu ông S trả tiền theo quy định của pháp luật. Để đảm bảo cho việc thi hành án, cùng với việc làm đơn khởi kiện thì bà S đã làm đơn yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời với yêu cầu cụ thể là yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp "Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ" theo quy định tại khoản 11, Điều 102 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Sau khi nhận hồ sơ khởi kiện cũng như đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của bà M, thì Tòa án nhân dân thành phố V đã thông báo cho bà M thực hiện thủ tục nộp tiền tạm ứng án phí và tiền bảo đảm để áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định. (Trong vụ án này tác giả là người nhận đại diện theo ủy quyền của bà M để tham gia tố tụng trong suốt quá trình giải quyết vụ án)

Ngày 15 tháng 6 năm 2015, Tòa án nhân dân thành phố V đã có Quyết định số 885/QĐBPKCTA để phong tỏa tài sản là quyền sử dụng đất của ông S, ngay sau khi ban hành Tòa án đã chuyển Quyết định sang cho Chi cục thi hành án dân sự thành phố V để tiến hành thi hành án theo quy định của pháp luật. Sự việc sẽ không có gì đáng nói nếu Chi cục thi hành án dân sự áp dụng các quy định của Luật thi hành án dân sự 2008 để ra Quyết định thi hành án dân sự theo quy định. Tuy nhiên, chi cục thi hành án dân sự thành phố V không ra Quyết định thi hành án mà ngay trong ngày 16/6/2015 chi cục thi hành án đã có công văn số 388/CCTHADS-GT để yêu cầu Tòa án giải thích Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án.

Trong công văn yêu cầu Tòa án giải thích thì chi cục thi hành án lý luận: Thủ tục thi hành án dân sự về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy định tại điểm d khoản 1, Điều 130 Luật thi hành án dân sự 2008, có quy định về việc "Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ" nhưng không nêu bằng biện pháp cụ thể nào nên chi cục thi hành án dân sự thành phố V không thể ra Quyết định thi hành án. Căn cứ điểm d, khoản 1, Điều 23 Luật thi hành án dân sự 2008, chi cục thi hành án dân sự thành phố V yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố V có văn bản giải thích việc "phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ" là bằng biện pháp nào để chi cục thi hành án dân sự thành phố V làm căn cứ tổ chức thực hiện.
Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ
Công văn 388 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố V

Sau khi nhận được công văn yêu cầu giải thích của thi hành án, Tòa án nhân dân thành phố V đã mời tác giả đến để làm việc. Tác giả thật bất ngờ khi xem công văn 388 của chi cục thi hành án thành phố V. Qua trao đổi với Phó Chánh án của Tòa thành phố V thì tác giả cũng được biết đây là lần đầu tiên ở Tòa thành phố V áp dụng biện pháp này nên cũng lúng túng trước công văn của cơ quan thi hành án. Cầm trên tay cuốn luật thi hành án dân sự 2008, Phó Chánh án Tòa V trao đổi và yêu cầu tác giả chọn biện pháp cụ thể theo nội dung công văn 388 của cơ quan thi hành án. 

Tác giả đã phân tích quy định tại điểm d khoản 1, Điều 30 Luật thi hành án dân sự, điều luật quy định cụ thể "Biện pháp bảo đảm quy định tại các điều 66, 67, 68 và 69 của Luật này để bảo đảm thi hành quyết định về cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp; cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp; phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác; phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ; phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ;"

Điều đó chứng tỏ để áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là "Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ" thì luật quy định cơ quan thi hành án được quyền áp dụng các biện pháp Phong tỏa tài khoản;Tạm giữ tài sản, giấy tờ;Tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng về tài sản;Việc áp dụng biện pháp cụ thể nào là tùy vào loại tài sản bị áp dụng theo Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án. 

Theo quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 885 của Tòa thì tài sản yêu cầu phong tỏa là Quyền sử đất như vậy rõ ràng biện pháp để áp dụng phải là Tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng về tài sản, đó là điều mà chi cục thi hành án dân sự cần phải hiểu để áp dụng chứ không cần phải có sự giải thích của Tòa án hay là yêu cầu của đương sự thì cơ quan thi hành án mới có quyền thực hiện. Tuy nhiên, không rõ vì sợ trách nhiệm hay là không hiểu mà chi cục thi hành án dân sự thành phố V đã có công văn yêu cầu giải thích như trên?

Qua một lúc làm việc tác giả đã có văn bản yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp cụ thể là Tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng về tài sản để Tòa án có cơ sở làm công văn gửi cho cơ quan thi hành án để cơ quan thi hành án sớm ra Quyết định thi hành án và cũng giúp Phó Chánh án Tòa V giải tỏa những căng thẳng của mình.

Sự việc không quá phải là phức tạp, giá trị tranh chấp trong vụ án không phải là lớn, tuy nhiên qua sự việc đó cũng đã giúp tác giả có thêm kinh nghiệm trong quá trình hành nghề của mình. Bên cạnh đó nhờ sự việc này mà tác giả phát hiện một lỗ hổng trong quy định của Luật Thi hành án dân sự 2008 (kể cả luật đã được sửa đổi bổ sung năm 2014 và hiệu lực từ ngày 01/7/2015) cụ thể như sau:

Theo quy định tại Điều 69 Luật Thi hành án dân sự 2008 thì “trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày ra quyết định, Chấp hành viên thực hiện việc kê biên tài sản hoặc chấm dứt việc tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản” mà không quy định về thời hạn cụ thể đối với trường hợp áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, như vậy nếu áp dụng theo đúng quy định tại Điều 130 và Điều 69 luật thi hành án dân sự thì thời hạn để áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với biện pháp này chỉ là 15 ngày? Điều đó là không phù hợp với thời hạn chuẩn bị xét xử của Bộ luật Tố tụng Dân sự và không bảo vệ quyền lợi cho người yêu cầu trong vụ án. Thiết nghĩ các cơ quan có thẩm quyền nên sớm có văn bản hướng dẫn hoặc có tờ trình để sửa đổi, bổ sung quy định nêu trên để việc áp dụng pháp luật được thống nhất.
Quyết Quyền

Monday, June 8, 2015

Bắt tạm giam Thẩm phán Nguyễn Văn Thiết - TAND thành phố Cần Thơ

Quan tòa 36 tuổi của quận Thốt Nốt, Cần Thơ, bị tình nghi liên quan đến một vụ lừa đảo tài sản.
Bài viết liên quan:
Trưởng văn phòng công chứng Tòa Văn Phụng bị bắt tạm giam
Chiều 8/6, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an TP Cần Thơ bắt tạm giam Nguyễn Văn Thiết (36 tuổi, thẩm phán TAND quận Thốt Nốt) đề điều tra về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Chánh án TAND TP Cần Thơ Nguyễn Thanh Thiên, nói: “Tôi vừa nghe thông báo về việc bắt giữ thẩm phán Nguyễn Văn Thiết. Tòa quận chỉ báo cáo sơ bộ, chúng tôi đang chờ văn bản chính thức để thực hiện các bước về tạm đình chỉ công tác và tạm đình chỉ sinh hoạt Đảng”.
Theo cơ quan điều tra, ông Thiết bị tình nghi có hành vi gian dối để chiếm đoạt tài sản của ít nhất 3 người.
(Theo Cửu Long - Vnexpress)

Friday, June 5, 2015

Tranh chấp quyền sử dụng đất - Ai giải quyết?

(Pháp luật) - Cho rằng hàng xóm lấn chiếm hơn 83 m2 đất của mình, đầu tháng 4-2015, bà N. đã nộp đơn khởi kiện yêu cầu TAND huyện Cái Bè (Tiền Giang) buộc vợ chồng bà T. phải tháo dỡ toàn bộ hàng rào trụ xi măng trên phần đất đó để trả lại đất cho bà.
Ngoài ra, bà N. còn yêu cầu vợ chồng bà T. phải bồi thường 2 triệu đồng do có hành vi chặt cây, phá rào tôn, phá trụ xi măng mà bà đã trồng, đã dựng trên phần đất trên.
Huyện trả đơn, tỉnh nói không cần hòa giải
Sau khi xem xét, TAND huyện Cái Bè cho rằng đây là tranh chấp quyền sử dụng đất giữa bà N. và vợ chồng bà T. Theo Điều 202 Luật Đất đai 2013, tranh chấp này phải được hòa giải ở UBND cấp xã (nơi có đất tranh chấp) trước khi bà N. nộp đơn khởi kiện ra tòa. Ở đây hai bên đương sự chưa qua thủ tục hòa giải ở UBND xã nên vụ án chưa đủ điều kiện khởi kiện theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 168 BLTTDS (sửa đổi, bổ sung năm 2011). Từ đó ngày 6-4, TAND huyện Cái Bè đã ra thông báo trả lại đơn khởi kiện cho bà N.
Bà N. khiếu nại nhưng chánh án TAND huyện Cái Bè đã bác đơn, ra quyết định giữ nguyên việc trả lại đơn kiện. Theo chánh án TAND huyện, để xem xét yêu cầu khởi kiện của bà, trước hết tòa cần phải xác định ai có quyền sử dụng đất tranh chấp rồi mới xem xét các yêu cầu tiếp theo như có tháo dỡ vật kiến trúc trên đất hay không, có trả lại đất hay không… Do vậy, tranh chấp này bắt buộc phải được hòa giải ở UBND xã theo Điều 202 Luật Đất đai 2013 và điểm a khoản 3 Điều 8 Nghị quyết số 05/2012 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao (hướng dẫn thi hành một số quy định trong BLTTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011).
Bà N. khiếu nại tiếp tới chánh án TAND tỉnh Tiền Giang yêu cầu hủy quyết định giữ nguyên việc trả lại đơn khởi kiện của chánh án TAND huyện Cái Bè. Ngày 23-4, chánh án TAND tỉnh này đã chấp nhận khiếu nại của bà N. Theo chánh án TAND tỉnh, đây chỉ là tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất, theo hướng dẫn tại điểm b khoản 3 Điều 8 Nghị quyết 05/2012 thì không phải tiến hành hòa giải tại UBND cấp xã nơi có đất tranh chấp.
Quy định ra sao?
Theo điểm c khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 03/2012 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao, tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai là tranh chấp ai có quyền sử dụng đất đó.
Trong khi đó, theo điểm b khoản 3 Điều 8 Nghị quyết 05/2012 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao thì tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất là tranh chấp như về giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất, về thừa kế quyền sử dụng đất, chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất…
Với tranh chấp ai có quyền sử dụng đất, phải tiến hành hòa giải ở UBND cấp xã nơi có đất tranh chấp trước khi đương sự nộp đơn khởi kiện ra tòa (điểm a khoản 3 Điều 8 Nghị quyết số 05/2012). Đối với tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất thì không phải tiến hành thủ tục này (điểm b khoản 3 Điều 8 Nghị quyết 05/2012).
Trở lại vụ việc trên, luật sư Cao Quang Thuần (Đoàn Luật sư TP.HCM) nhận xét đúng ra các tòa phải xác minh kỹ hơn trước khi ra quyết định. Bởi lẽ từ vụ việc của bà N. sẽ có hai tình huống được đặt ra: Nếu bà N. đã có căn cứ chứng minh hơn 83 m2 đất bị lấn chiếm thuộc quyền sử dụng hợp pháp của mình (đất đã được cấp giấy đỏ, có các giấy tờ khác theo quy định hoặc vợ chồng bà T. thừa nhận…) và chỉ yêu cầu tòa buộc vợ chồng bà T. tháo dỡ toàn bộ hàng rào trụ xi măng trên phần đất lấn chiếm, bồi thường tài sản đã bị chặt phá thì thuộc trường hợp tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất, không phải tiến hành hòa giải tại UBND cấp xã trước khi khởi kiện.
Tuy nhiên, nếu phần đất này chưa có căn cứ xác định ai là người được quyền sử dụng hợp pháp và nay nhờ tòa xác định thì về bản chất, vụ việc này thuộc trường hợp tranh chấp quyền sử dụng đất. Lúc này, các bên phải tiến hành hòa giải tại UBND cấp xã trước khi tòa án giải quyết vụ án.
“Tòa huyện đúng”
Cá nhân tôi vẫn nghiêng về quan điểm của TAND huyện Cái Bè bởi nếu bà N. chỉ dừng lại ở việc yêu cầu vợ chồng người hàng xóm tháo dỡ hàng rào trụ xi măng, bồi thường thiệt hại do có hành vi chặt cây, phá rào tôn, phá trụ xi măng bà N. đã trồng, đã dựng trên đất thì đó chỉ là tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, ở đây bà N. còn cho rằng vợ chồng người hàng xóm đã lấn chiếm phần đất này của bà và yêu cầu tòa buộc họ trả lại. Như vậy, muốn giải quyết các yêu cầu khởi kiện của bà N. một cách có căn cứ, hợp pháp thì bắt buộc trước hết tòa phải xác định ai có quyền sử dụng phần đất đó.
Do trong tranh chấp của bà N. có phần cơ bản là tranh chấp về quyền sử dụng đất như đã phân tích ở trên nên bắt buộc phải qua thủ tục hòa giải tại UBND xã trước khi khởi kiện ra tòa.
Luật sư CHÂU QUÝ QUỐC, Đoàn Luật sư TP.HCM
(Theo Phapluattp.vn)

Theo tác giả thì đối với những loại việc như trên bà N có quyền yêu cầu chủ tịch UBND xã hoặc UBND huyện để xử phạt hành chính (tùy theo loại đất bị lấn chiếm, nếu đất bị lấn chiếm là đất ở thì thuộc thẩm quyền của chủ tịch UBND huyện) theo quy định tại Điều 10 Nghị định số 102/2014/NĐ-CP Luật Đất đai năm 2013 nếu giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà N được cấp đã thể hiện rõ vị trí và diện tích sử dụng, nếu người lấn đất bà N không tự nguyện tháo dỡ để thi hành thì người đã ra Quyết định hành chính có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế để thi hành quyết định hành chính. Chỉ đối với yêu cầu bồi thường thiệt hại thì bà N có quyền khởi kiện ra Tòa để yêu cầu bồi thường thiệt hại.Dân mình vẫn có thói quen hễ có tranh chấp là cứ kéo nhau ra Tòa mà không biết có những trường hợp vẫn có quyền yêu cầu cơ quan hành chính xử phạt hành chính đối với hành vi vi phạm của người khác.



Thursday, June 4, 2015

Xử ly hôn vắng mặt cả vợ lẫn chồng được không?

đơn phương xin ly hôn
(Pháp luật)- Từ nước ngoài, người chồng gửi đơn xin ly hôn, xin tòa giải quyết vắng mặt, người vợ thì không chịu đến dù tòa triệu tập nhiều lần. Tòa phải đình chỉ giải quyết vụ án hay vẫn mở phiên xử vắng mặt hai người?
Trước đây, ông T. đăng ký kết hôn với bà H. và được UBND tỉnh Khánh Hòa cấp giấy chứng nhận. Sau đó, ông T. định cư ở nước ngoài, cuộc sống gặp nhiều khó khăn do thất nghiệp. Vì vậy, ông đã không thể chu cấp tiền bạc cho vợ và cũng không đủ các điều kiện bảo lãnh vợ sang đoàn tụ gia đình.