This is an example of a HTML caption with a link.

TƯ VẤN LUẬT LAO ĐỘNG

TƯ VẤN LUẬT HÌNH SỰ

TƯ VẤN LUẬT DÂN SỰ

KÝ SỰ LUẬT SƯ

Wednesday, March 14, 2018

Bài bào chữa của Luật sư Nguyễn Minh Tâm trong vụ án "hậu Huyền Như"

TP. Hồ Chí Minh, ngày 13/3/2018
Kính thưa : - Hội đồng xét xử
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân TP. Hồ Chí Minh
TUQ của VKSTC thực hành quyền công tố tại phiên tòa.
- Thưa các luật sư đồng nghiệp.
Tôi - Luật sư Nguyễn Minh Tâm thuộc Đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh là người bào chữa cho bị cáo Phạm Thị Thu Hiền, bị truy tố về tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” theo khoản 3 Điều 165 BLHS năm 1999.
Trong vụ án này có 10 bị cáo và các quyền lợi của họ không hề đối lập nhau, đồng thời có tới 9 bị cáo đồng loạt kêu oan, riêng 01 bị cáo nhận tội nhưng giải thích lời nhận tội của mình là do quá trình điều tra được điều tra viên giải thích, hướng dẫn mới nhận ra, chứ trong thời điểm thực hiện hành vi không hề biết đó là hành vi làm trái. Lời nhận tội này, về bản chất, cũng là lời gián tiếp kêu oan. Vì vậy, có thể nói cả 10 bị cáo đều kêu oan.
Có tới 30 luật sư bào chữa cho 10 bị cáo. Phải chăng số lượng luật sư đông đảo thế này cũng là sự thể hiện khát vọng của các bị cáo kêu oan cho mình và hy vọng vào tiếng nói của luật sư trong điều kiện Nhà nước ta đang thực hiện cải cách tư pháp, đặc biệt là tư pháp hình sự mà một điểm quan trọng là tôn trọng vị thế, vai trò của luật sư trong tranh tụng dân chủ trước tòa ? Tôi mong sự thật là như thế sau phán quyết của Quý Hội đồng xét xử khi kết thúc phiên tòa này trong một bản án thật sự công minh.
Vì các quyền lợi của 10 bị cáo là thống nhất nên các luật sư trước tôi đã trình bày bài bào chữa theo tôi là rất đầy đủ những luận cứ bào chữa với các lập luận và phân tích đánh giá chứng cứ có sức thuyết phục về hành vi, về hậu quả và mối quan hệ nhân quả theo các dấu hiệu của Điều 165 BLHS. Đặc biệt là không có mối quan hệ nhân quả tất yếu giữa hành vi của các bị cáo với hậu quả Huyền Như chiếm đoạt 200 tỷ đồng của Navibank tại VTB Chi nhánh HCM.
Trong lời tự bào chữa của mình, bị cáo Phạm Thị Thu Hiền cũng đã trình bày một cách rõ ràng vị trí, vai trò của bị cáo trong Hội đồng tín dụng và Trưởng phòng pháp chế của Navibank cũng như ý thức chủ quan khi thực hiện hành vi và một mực kêu oan trong quá trình điều tra, truy tố. Điều này lại được đại diện VKS, trong lời luận tội cho rằng, vai trò của Thu Hiền có hạn chế nhưng quá trình điều tra đã không có thái độ hợp tác, thành khẩn, nên đã đề nghị mức án đối với Thu Hiền từ 8-9 năm tù. Đáng chú ý, trong lời luận tội, đại diện VKS đã chỉ nêu những nhận định đánh giá theo bản cáo trạng mà không xem xét, đánh giá các tài liệu, chứng cứ được điều tra công khai, bỏ qua các tình tiết trong diễn biến của phiên tòa là không bảo đảm đúng tinh thần của cải cách tư pháp theo Nghị quyết 08 và Nghị quyết 09 của Bộ chính trị cũng như quy định của Bộ luật TTHS năm 2015.
Để tránh trùng lặp với ý kiến của các luật sư đã phát biểu trước, phần tôi chỉ xin nhấn mạnh thêm mấy điểm - theo tôi - là rất quan trọng sau đây :
1. Vụ án Navibank có thể nói là một vụ án “hậu Huyền Như”, bởi vì vụ án được khởi tố theo kiến nghị của bản án phúc thẩm số 02/2015/HSPT ngày 07/01/2015 của Tòa phúc thẩm TANDTC tại thành phố Hồ Chí Minh (nay là Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh). Sau khi kết tội Huyền Như về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” vì đã chiếm đoạt số tiền 200 tỷ đồng của Navibank, bản án phúc thẩm này kiến nghị : “ VKSNDTC và cơ quan điều tra Bộ Công an điều tra làm rõ trách nhiệm hình sự của những người có thẩm quyền tại Ngân hàng thương mại cổ phần Nam việt (nay là Ngân hàng TMCP Quốc dân) đã ủy thác cho nhân viên gửi tiền vào các ngân hàng khác hưởng lãi suất vượt trần gây ra hậu quả đặc biệt nghiêm trọng để xử lý thỏa đáng”.
Từ kiến nghị này, vụ án Navibank được khởi tố và 10 bị cáo phải đứng trước tòa hôm nay để bị xét xử về tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”.
Bản án phúc thẩm này đã nói lên điều gì ?
Theo tôi, có hai điều cần xem xét:
Điều thứ nhất : Bản án đã chốt lại hậu quả là Navibank đã bị mất số tiền 200 tỷ do Huyền Như chiếm đoạt. Vì thế, tại phiên tòa này, ngay từ đầu Hội đồng xét xử đã xác định vấn đề hậu quả không thuộc phạm vi xét xử của vụ án này. Có nghĩa là : Hội đồng xét xử không cần phải chứng minh hậu quả vụ án nữa, vì hậu quả đã được xác định trong bản án phúc thẩm đã có hiệu lực pháp luật rồi. Cũng có nghĩa là phiên tòa này đã bỏ qua một dấu hiệu cực kỳ quan trọng là phải chứng minh được hậu quả do hành vi của 10 bị cáo gây ra.
Nghịch lý là ở chỗ này : Các bị cáo kêu oan vì hành vi của mình không gây hậu quả và đòi “quyền được chứng minh” trong vụ án này không có hậu quả xảy ra nhưng về mặt tố tụng, họ đã đã bị “tước” đi cái quyền quan trọng đó đã được pháp luật thừa nhận. Nghịch lý này đẻ ra hệ quả : Lời kêu oan và những điều họ chứng minh là đúng bằng các chứng cứ và luận lý thuyết phục đến đâu chăng nữa cũng sẽ không được Hội đồng xér xử đánh giá, xem xét hay là chỉ kêu cho thỏa mà thôi !
Vì vậy, trong quá trình xét hỏi, các bị cáo và luật sư đã yêu cầu VKSTC cung cấp tài liệu, chứng cứ là các bản sao kê tài khoản của 04 cá nhân để xác định tính chính xác của hậu quả thiệt hại. Rất mừng là yêu cầu này đã được HĐXX chấp thuận cho dừng phiên tòa và có văn bản yêu cầu VKSTC cung cấp.
Nghiên cứu các bản sao kê này, tôi nhận thấy, các tài liệu này chưa bảo đảm các thuộc tính của chứng cứ có giá trị chứng minh về thiệt hại. Vì các bản sao kê này là tài liệu chứa đựng dữ liệu điện tử nên phải tuân thủ quy định tại Điều 107 BLTTHS 2015 về “thu thập phương tiện điện tử, dữ liệu điện tử”. Cụ thể :
1. Về tính khách quan: Các bản sao kê chỉ là tài liệu sao chép lại, không phải là các tài liệu chứng cứ gốc : Không có chữ ký của Giao dịch viên và kiểm soát viên là người chịu trách nhiệm về sự chuẩn xác và tính pháp lý của tài liệu, chứng từ. Các bản sao kê chỉ có dấu đóng treo của Vietinbank và dấu, chữ ký của Kiểm sát viên.
2. Về tính hợp pháp: Không có các biên bản bàn giao giữa người cung cấp tài liệu và đại diện cơ quan nhận tài liệu, không có biên bản niêm phong và mở niêm phong tài liệu trong phương tiện điện tử ; không có các bút toán kèm theo các bản sao kê này để chứng minh bản sao kê đã thể hiện đúng các giao dịch đã thực hiện…
3. Đặc biệt, chính bản thân các bản sao kê này đã chứng minh số tiền 200 tỷ mà bản án phúc thẩm số 02 quy kết là đã bị Huyền Như chiếm đoạt hết là không đúng. Tổng hợp các bản sao kê tài khoản của 04 cá nhân, chúng tôi thấy vẫn còn trong tài khoản một số tiền gần 300 triệu, căn cứ vào số dư cuối kỳ ở phần đấu phía trái từng bản sao kê tính đến ngày 31/12/2011. Cụ thể :
3.1. Bản sao kê tài khoản của Lương Thị Thủy Tiên :
- BL 5681 : Số dư là 14.254.31300;
- BL 5682 : Số dư là 658.959, 00;
3.2. Bản sao kê tài khoản của Huỳnh Linh Chi :
- BL 5673 : Số dư là 10.727.185,00;
BL 5674 : Số dư là 638,431,00;
3.3. Bản sao kê tài khoản của Nguyễn Cao Thùy Anh :
- BL 5693 : Số dư là 241.544.388,00;
- BL 5694 : Số dư là 3.415.706,00;
3.4. Bản sao kê tài khoản của Lê Thị Thu Hương :
- BL 5678 : Số dư là 20.434.394,00
- BL 5677 : số dư là 6.843.180,00.
Tổng cộng 04 tài khoản của 04 cá nhân thì số tiền còn lại cho đến ngày 31/12/2011 là : 298.516.556 đồng.
Số liệu tổng hợp có thật này đã cho thấy kết luận của bản án phúc thẩm số 02 rằng : Huyền Như đã chiếm đoạt của Navibank số tiền 200 tỷ đồng là chưa đủ căn cứ. Nếu Huyền Như đã chiếm đoạt hết 200 tỷ trong 4 tài khoản này thì mục số dư phải là 0 chứ không thể còn 300 triệu ( số tròn).
Vậy, hoạt động chứng minh này của các bị cáo và luật sư không công nhận giá trị phán quyết của bản án phúc thẩm số 02 về hậu quả thiệt hại 200 tỷ có được xem xét tại phiên tòa này không? Và khi xét thấy bản án phúc thẩm đó có sai lầm vì đã có kết luận không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án thì căn cứ khoản 1 Điều 372 Bộ luật TTHS quy định “Về phát hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật cần xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm” : “ Người bị kết án, cơ quan, tổ chức và mọi cá nhân có quyền phát hiện vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và thông báo cho người có thẩm quyền kháng nghị”. Liệu Hội đồng xét xử vụ án này - với tư cách là một cơ quan xét xử - có thể thông báo với Chánh án TANDTC và Viện trưởng VKSNDTC để ra quyết định kháng nghị bản án phúc thẩm số 02 nói trên hay không ?
Điều thứ hai : Lại còn một nghịch lý nữa : Tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm vụ án Huyền Như, 9/10 bị cáo cũng không được đến tham dự phiên tòa với tư cách người tham gia tố tụng để trình bày về những vấn đề có liên quan đến hành vi của cá nhân họ khi Hội đồng xét xử kết tội Huyền Như lừa đảo và việc kết tội này lại là tiền đề, là căn cứ để bản án phúc thẩm kiến nghị xử lý trách nhiệm hình sự của họ !
Như vậy, là cả 10 bị cáo hôm nay trở thành nạn nhân của những quy định và áp dụng về tố tụng hình sự xơ cứng, máy móc, vi phạm nghiêm trọng các quyền của bị cáo và mở rộng ra là quyền cơ bản của con người đã được chính Hiến pháp 2013 ghi nhận và bảo hộ !
Có thể nói : Trong lịch sử tố tụng hình sự Việt Nam, ít và hiếm gặp tình cảnh nào như tình cảnh của 10 bị cáo này !
2. Nhưng có một điều – mà điều này lại cực kỳ quan trọng – đối với việc minh oan cho các bị cáo. Đó là bản án phúc thẩm đã phạm một sai lầm nghiêm trọng về lô gích pháp lý khi vừa kết tội Huyền Như lừa đảo lại vừa kiến nghị xử lý về trách nhiệm hình sự đối với các cá nhân ở Navibank. Và quá trình khởi tố, điều tra, truy tố các bị cáo trong vụ án này cũng đã phạm sai lầm trong hoạt động chứng minh theo định hướng kiến nghị của bản án phúc thẩm mà lẽ ra, các cơ quan tiến hành tố tụng điều tra, truy tố phải có văn bản xác định không khởi tố vụ án hình sự tại Navibank mới bảo đảm tính đúng đắn, công bằng.
Căn cứ vào đâu để tôi khẳng định điều này ?
Ai cũng biết tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” bao giờ cũng được phát sinh từ một mối quan hệ xã hội. Đó là mối quan hệ giữa “Kẻ đi lừa” và “Người bị lừa”. Bản án phúc thẩm kết tội Huyền Như lừa đảo chiếm đoạt 200 tỷ đồng của Navibank. Vậy trong mối quan hệ này : Huyền Như là “kẻ đi lừa” và Navibank là “Người bị lừa”. Navibank là một pháp nhân, hoạt động của nó phải thông qua các cá nhân với các chức vụ, quyền hạn nhất định theo Luật các tổ chức tín dụng. Chính vì thế mà pháp luật không truy tố hình sự đối với pháp nhân Navibank mà truy tố các cá nhân có chức vụ, quyền hạn của Navibank. Vậy, nói Navibank “bị Huyền Như lừa” thì tức là xác định 10 cá nhân các bị cáo này “bị Huyền Như lừa”. Về mặt lô gích pháp luật và cả lô gích của đời thường, người bị lừa không biết mình bị lừa thì mới bị lừa. Tức là chỉ vì vô ý quá cẩu thả hay vô ý quá tự tin thì mới bị lừa, chứ tuyệt nhiên không bao giờ và không có ai cố ý để cho mình bị người khác lừa cả.
Vậy, kết luận lô gích rút ra sau phân tích này là : Cả 10 cá nhân bị cáo hôm nay bị Huyền Như lừa thì rõ ràng là họ không có “Lỗi cố ý”. Tức là họ không thể thấy trước được hậu quả và mong muốn (Cố ý trực tiếp) hoặc bỏ mặc hậu quả (Cố ý gián tiếp) xảy ra. Điều này là rõ ràng. Vậy, lô gích của vấn đề là họ đã không có “Lỗi cố ý” tức là không có dấu hiệu mặt chủ quan là một trong 4 yếu tố bắt buộc của cấu thành tội phạm trong tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”. Họ đã khốn khổ khi bị Huyền Như lừa dẫn đến mất tiền rồi nay lại khốn khổ vì bị đưa ra pháp đình về cái tội mà họ không cố ý phạm phải.
Do đó, theo tôi, trong vụ án này, các bị cáo kêu oan là hoàn toàn có căn cứ pháp luật !
Tiếc rằng, trong suốt quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại phiên tòa hôm nay, đại diện VKS đã né tránh, cố ý không chứng minh về “Lỗi cố ý” (dù là cố ý trực tiếp hay cố ý gián tiếp) của họ để bảo vệ lời luận tội của mình.
3. Tại phiên tòa, khi trình bày bài tự bào chữa, bị cáo Đoàn Đăng Luật đã nói những lời như rút ra từ gan ruột mình khiến những người nghe xúc động, khi được biết : Trong quá trình điều tra, một điều tra viên nào đó (mà bị cáo Luật không nói tên) đã nói với Luật rằng : Thật không may cho các anh, Vietinbank là của Nhà nước mà quyền lợi của Nhà nước phải được ưu tiên bảo vệ. Các anh đã đụng phải đá rồi ! Không biết điều này bị cáo Luật kể lại có đúng không nhưng diễn biến của 02 phiên tòa xử Huyền Như trước đây đã cho thấy, thực sự Vietinbank đã thoát khỏi cái gọi là trách nhiệm dân sự phải bồi thường tiền gửi cho khách hàng; Vietinbank không mất tiền vì Huyền như đã lãnh trọn cái trách nhiệm ấy, cũng có nghĩa là quyền lợi của Nhà nước đã được các phiên tòa trước bảo vệ.
Nhưng xin thưa Quý tòa, Quý viện !
Bản án phúc thẩm số 02 cũng đã giải thoát trách nhiệm dân sự của Vietinbank, tức là đã bảo vệ quyền lợi của Nhà nước bằng phán quyết Huyền Như phải bồi thường cho Navibank số tiền 200 tỷ. Vietinbank không bị mất số tiền này. Vậy thì việc đưa 10 bị cáo - nạn nhân của Huyền Như - ra tòa để xử về tội “Cố ý làm trái…” còn có ý nghĩa gì nữa trong việc bảo vệ quyền lợi của Vietinbank ?
Chính họ - 10 bị cáo này mới thực sự cần được giải thoát nỗi oan mà họ đang kêu !
Tôi thật bất ngờ với lời luận tội của vị đại diện VKS khi đề nghị mức án với các bị cáo quá nặng, bị cáo cao nhất bị đề nghị từ 14-15 năm tù chỉ vì họ là “Những kẻ bị lừa”.
Tôi xin kết thúc lời bào chữa bằng một niềm mong và hy vọng, bản án sắp được tuyên của Hội đồng xét xử thực sự là một bản án công minh, giải được nỗi oan cho 10 bị cáo này.
Trân trọng cảm ơn.
Ký tên
LUẬT SƯ NGUYỄN MINH TÂM
(Nguồn Facebook)

Sunday, December 17, 2017

Ủy quyền khởi kiện - hiểu sao cho đúng

Vừa qua, trên Báo pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh vừa đăng 02 bài viết liên quan đến việc người đại diện theo ủy quyền thực hiện việc khởi kiện và ký đơn khởi kiện, cụ thể là bài đăng với tiêu đề "Thay mặt người đang ở Canada khởi kiện được không?” và bài “Người đại diện theo ủy quyền được khởi kiện?”. Trong các bài viết trên thì các chuyên gia luật cũng đã có nhiều ý kiến khác nhau, qua bài viết này tác giả xin chia sẻ những quan điểm của tác giả về vấn đề này cùng Quý độc giả, để quý độc giả có thể hiểu rõ hơn về vấn đề này.

Ủy quyền trong Tố tụng dân sự

Người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện là cá nhân (nguyên đơn) không được ký đơn khởi kiện vì luật đã quy định rất rõ ràng.

Theo quy định tại Điều 189 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 thì:
Điều 189. Hình thức, nội dung đơn khởi kiện
2. Việc làm đơn khởi kiện của cá nhân được thực hiện như sau:
a) Cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự thì có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án. Tại mục tên, địa chỉ nơi cư trú của người khởi kiện trong đơn phải ghi họ tên, địa chỉ nơi cư trú của cá nhân đó; ở phần cuối đơn, cá nhân đó phải ký tên hoặc điểm chỉ;
b) Cá nhân là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì người đại diện hợp pháp của họ có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án. Tại mục tên, địa chỉ nơi cư trú của người khởi kiện trong đơn phải ghi họ tên, địa chỉ nơi cư trú của người đại diện hợp pháp của cá nhân đó; ở phần cuối đơn, người đại diện hợp pháp đó phải ký tên hoặc điểm chỉ;

Người đại diện theo ủy quyền của cơ quan, tổ chức thì được quyền ký đơn khởi kiện.

Theo quy định tại Khoản 3, Điều 189 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, thì: “3. Cơ quan, tổ chức là người khởi kiện thì người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án. Tại mục tên, địa chỉ của người khởi kiện phải ghi tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức và họ, tên, chức vụ của người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó; ở phần cuối đơn, người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức phải ký tên và đóng dấu của cơ quan, tổ chức đó; trường hợp tổ chức khởi kiện là doanh nghiệp thì việc sử dụng con dấu theo quy định của Luật doanh nghiệp.” (Đại diện hợp pháp của tổ chức bao gồm người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo ủy quyền).

Nội dung này, trước đây được Nghị Quyết 05/2012/NQ-HĐTP hướng dẫn rất rõ tại khoản 5, Điều 2, cụ thể như sau: “Trường hợp người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức ủy quyền cho người khác thực hiện việc khởi kiện vụ án thì tại mục “Tên, địa chỉ của người khởi kiện” sau khi ghi tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức, phải ghi họ tên, chức vụ của người đại diện theo ủy quyền của cơ quan, tổ chức đó, văn bản ủy quyền (số, ngày, tháng, năm) và chức danh của người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức ủy quyền. Tại mục “Người khởi kiện” ở cuối đơn khởi kiện cần phải ghi tên của cơ quan, tổ chức, ghi dòng chữ “Người đại diện theo ủy quyền”; người đại diện theo ủy quyền ký tên, ghi họ, tên của người đại diện theo ủy quyền và đóng dấu của cơ quan, tổ chức.”

Ủy quyền trong giao dịch dân sự

Người đại diện theo ủy quyền trong giao dịch dân sự được quyền ký đơn khởi kiện.

Trong 02 bài báo của báo Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh đã đăng không thể hiện được sự khác nhau giữa người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự và người đại diện theo ủy quyền trong giao dịch dân sự vì vậy dẫn đến việc khó hiểu cho người đọc, đồng thời các chuyên gia đã phân tích vẫn chưa nhận định được sự khác biệt về tư cách của người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự và giao dịch dân sự.

Theo quan điểm của tác giả thì người đại diện theo ủy quyền trong giao dịch dân sự được quyền ký đơn khởi kiện, để bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình khi bị xâm phạm trong quá trình thực hiện công việc ủy quyền và người đại diện theo ủy quyền ký đơn, thì họ tham gia tố tụng với tư cách là nguyên đơn trong vụ án dân sự, chứ không phải là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn. Tác giả xin đưa ra một trường hợp cụ thể để Quý độc giả dễ hình dung:

Ông A ủy quyền cho ông B được toàn quyền, quản lý, sử dụng, định đoạt đối với tài sản của mình là Quyền sử dụng đất X, bằng văn bản ủy quyền hợp pháp, sau khi có văn bản ủy quyền hợp pháp thì ông B tiến hành giao dịch với ông C, cụ thể là ông B chuyển nhượng quyền sử dụng đất X cho ông C với giá 300.000.000 đồng, ông B và C thỏa thuận việc thanh toán thành 02 lần, lần 1: 200.000.000 đồng ngay khi ký hợp đồng chuyển nhượng, lần 2 ngay khi việc đăng ký biến động quyền sử dụng đất được hoàn tất theo quy định của pháp luật. Trong quá trình thực hợp đồng thì ông C chỉ thanh toán cho ông B 200.000.000 đồng, đối với  100.000.000 đồng còn lại thì ông C vi phạm nghĩa vụ thanh toán. Như vậy, theo quan điểm của tác giả thì trong trường hợp này ông B được quyền ký đơn khởi kiện để kiện ông C, yêu cầu ông C phải thanh toán số tiền 100.000.000 đồng theo thỏa thuận trong hợp đồng chuyển nhượng và khi tòa thụ lý vụ án thì ông B là nguyên đơn trong vụ án.

Tác giả hoàn toàn đồng ý với quan điểm của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu trong vụ việc được phản ánh trong bài viết “Người đại diện theo ủy quyền được khởi kiện?” Bởi lẽ người đại diện theo ủy quyền đã được quyền chiếm hữu đối với tài sản đó thì được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền sở hữu của mình khi có hành vi xâm phạm, cụ thể được quy định tại Điều 189 Bộ luật Dân sự 2015 “Điều 185. Bảo vệ việc chiếm hữu
Trường hợp việc chiếm hữu bị người khác xâm phạm thì người chiếm hữu có quyền yêu cầu người có hành vi xâm phạm phải chấm dứt hành vi, khôi phục tình trạng ban đầu, trả lại tài sản và bồi thường thiệt hại hoặc yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc người đó chấm dứt hành vi, khôi phục tình trạng ban đầu, trả lại tài sản và bồi thường thiệt hại.

Qua bài viết này tác giả hy vọng Quý độc giả có thể hiểu rõ hơn quy định liên quan đến việc ủy quyền và xác định được lúc nào thì người đại diện theo ủy quyền được quyền khởi kiện, lúc nào thì người đại diện theo ủy quyền không được quyền khởi kiện.
Quyết Quyền

Sunday, May 7, 2017

Chuyện về cái cổng rào - Phường 7, quận Bình Thạnh

Vào ngày 04 tháng 05 năm 2017, tôi và đồng nghiệp là Luật sư Giang Văn Quyết đã đồng hành cùng chị Hồ Thị Hồng Loan để tham gia phiên toà về việc Khiếu nại quyết định hành chính đối với Quyết định của Chủ tịch UBND Phường 7, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh, Quyết định liên quan đến cái cổng rào đã tốn khá nhiều giấy mực của giới báo chí và tốn rất nhiều Quyết định của chủ tịch UBND Phường 7, quận Bình Thạnh, cũng như các cơ quan khác có liên quan. Mặc dù phiên Toà sơ thẩm đang tạm kết thúc và đang chờ nghị án để tuyên án vào ngày 11/5/2017, tuy nhiên những cảm xúc và nhiều điều thú vị liên quan đến phiên toà và cánh cổng rào khiến tôi muốn chia sẻ cùng Quý độc giả.

Để Quý độc giả có thể hình dung được toàn bộ sự việc và đánh giá sự việc một cách khách quan, tôi xin tóm tắt diễn biến sự việc liên quan đến cánh cổng rào nêu trên và vụ kiện như sau:

Hồ Thị Hồng Loan là chủ sở hữu của 02 căn nhà số 5/99/19 và 5/99/19B Nơ Trang Long, Phường 7, quận Bình Thạnh, hai căn nhà nêu trên ở cuối hẻm cụt, gần khu vực bệnh viện Ung Bướu Thành phố Hồ Chí Minh. Vào thời điểm năm 2007 do tình hình an ninh của khu vực có nhiều bất ổn, ở khu vực hẻm có nhiều người lạ mặt thường xuyên xuất hiện, gia đình bà Loan có 02 con nhỏ và cha già gần 90 tuổi, do tính chất công việc phải thường xuyên vắng nhà nên bà Hồ Thị Hồng Loan có làm đơn xin xây dựng cổng rào trên phần đất hẻm ở phía trước căn nhà số 5/99/19B, đơn xin xây dựng cổng rào được toàn thể hộ dân trong khu vực ký tên đồng ý và được Phường 7 xem xét trình cho quận nhưng thời điểm này quận không đồng ý cho  gia đình bà Loan xây dựng.
Đơn xây cổng rào
02 Đơn xin phép xây cổng rào của bà Loan
Ngày 29-12-2008 bà Loan tiếp tục có đơn xin xây dựng tạm cổng rào trên phần đất công nêu trên, bà Loan cam kết sẽ tự nguyện tháo dỡ khi Nhà nước có nhu cầu quy hoạch hay mở rộng hẻm và được bà phó chủ tịch Phường 7 thời điểm đó là bà Nguyễn Thị Lệ xác nhận đồng ý cho bà Loan xây dựng nhằm đảm bảo an ninh cho gia đình và chỉ được sử dụng chứ không được hợp thức hoá. Sau khi nhận được sự chấp thuận của Phường 7 thì hộ bà Hồng Loan đã tiến hành xây dựng cổng rào có hiện trang như bây giờ.
Hiện trạng cổng rào 
Vào năm 2012 hộ bà Phạm Thị Thu Hà là hàng xóm của bà Hồng Loan có hành vi xây dựng trái phép nên bà Loan có làm đơn gửi cho các cơ quan chức năng yêu cầu xử lý và kết quả là phần xây dựng trái phép của bà Hà đã bị cơ quan chức năng tháo dỡ theo quy định của pháp luật.
phần xây dựng trái phép của bà Hà bị đập bỏ năm 2012
Cay cú trước việc một phần diện tích xây dựng của gia đình bị đập bỏ do đơn thư của bà Hồng Loan nên gia đình của bà Hà đã hướng đến việc yêu cầu cơ quan chức năng tháo dỡ cánh cổng rào của gia đình bà Loan. Để thực hiện điều này gia đình bà Hà cũng có nhiều đơn thư phản ảnh đến quận Bình Thạnh về việc UBND Phường 7 chấp thuận cho hộ bà Loan tiến hành xây dựng cổng rào trên đất công là không đúng thẩm quyền của Phường 7, hệ quả của việc này là UBND quận Bình Thạnh đã có công văn 1720/UBND-TTXD yêu cầu UBND Phường 7 thu hồi việc chấp thuận cho Loan dựng cổng rào, thực hiện chỉ đạo này ngày 11/9/2012 UBND Phường 7 đã ban hành công văn số 175/UBND để thu hồi văn bản xác nhận ngày 06/01/2009, đồng thời đề nghị bà Loan tự tháo bỏ phần cổng rào trả lại hiện trạng ban đầu, tuy nhiên bà Loan không đồng ý.

Công văn 175/UBND ban hành nhưng chỉ có giá trị thu hồi lại việc chấp thuận cho bà Loan xây dựng cổng rào, còn đối với việc tháo dỡ cổng rào thì không thể thực hiện được, vì vậy UBND Phường đã xin ý kiến của cơ quan hữu quan để tìm hướng giải quyết và thế là các văn bản của UBND Thành phố Hồ Chí Minh, Sở tư pháp, Sở xây dựng được ban hành, mặc dù các văn bản có một số điểm khác biệt nhưng chung quy lại thì vẫn thống nhất nội dung chính để định hướng cho việc xử lý cánh cổng rào của bà Loan là:

- Xác định việc bà Loan xây dựng cổng rào không phải là hành vi xây dựng không phép, không vi phạm quy định của luật xây dựng, không có hành vi vi phạm hành chính nên không thể giải quyết theo trình tự xử phạt vi phạm hành chính.

- Đối với việc UBND Phường 7 đã thuận cho bà Loan xây dựng cổng rào thì thuộc trách nhiệm của cơ quan nhà nước, những cá nhân liên quan phải chịu trách nhiệm với tổ chức, trong trường hợp phải tháo dỡ cổng rào thì UBND Phường 7 phải có trách nhiệm bồi thường cho hộ bà Loan.

- Muốn buộc bà Loan tháo dỡ cổng rào thì phải thông qua đơn thư khiếu nại của những cá nhân, tổ chức có liên quan bị ảnh hưởng, đồng thời việc giải quyết khiếu nại phải thực hiện theo đúng trình tự luật định.

Công văn 1592 của sở tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh

Không rõ gia đình bà Hà có được thông tin của các công văn nêu trên từ đâu hay là do cá nhân nào đó hướng dẫn, ngày 06/10/2014 bà Hà có đơn khiếu nại gửi đến chủ tịch UBND Phường 7 để khiếu nại việc UBND Phường 7 đã chấp thuận cho bà Hồ Thị Hồng Loan xây dựng cổng rào trên phần đất công cộng làm ảnh hưởng đến quyền lợi các hộ xung quan khu vực và gia đình bà Hà, đồng thời yêu cầu chủ tịch UBND Phường 7 trả lời cho bà Hà bằng quyết định giải quyết khiếu nại, ngoài ra đơn không còn yêu cầu nào khác.
Đon khiếu nại của bà Hà
Chủ tịch UBND Phường 7, ngay sau khi nhận được đơn của bà Hà đã thụ lý giải quyết và ban hành quyết định giải quyết khiếu nại  số 117/QĐ-UBND ngày 5 tháng 8 năm 2014, nội dung chính của Quyết định là chấp nhận nội dung khiếu nại của bà Hà, đồng thời buộc bà Hồ Thị Hồng Loan có trách nhiệm tháo dỡ phần cổng rào trả lại hiện trạng ban đầu là hẻm cung, nếu bà Loan không chấp hành thì sẽ bị tổ chức cưỡng chế theo quy định của pháp luật. Ngoài ra trong Quyết định còn có thêm nội dung xác định việc có cổng rào trên đất công khiến mỗi lần gia đình bà Loan chạy ra, vào gây tiếng ồn và xả khói bụi làm ảnh hưởng đến sức khoẻ gia đình bà Hà.





Bà Loan không đồng tình với Quyết định 117 và không thực hiện việc tự tháo dỡ, nên UBND Phường 7 đã ban hành quyết định cưỡng chế, bà Loan ngay sau đó đã khởi kiện ra Toà, trong quá trình giải quyết vụ án thì người bị kiện đã thu hồi quyết định cưỡng chế, người khởi kiện rút đơn khởi kiện nên vụ án đã được đình chỉ.

Mặc dù thu hồi quyết định cưỡng chế nhưng Quyết định số 117 thì chủ tịch UBND Phường 7 vẫn không thu hồi. Bà Loan xác định Quyết định 117 làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của bà nên đã khởi kiện tại Toà án nhân dân quận Bình Thạnh trong thời hiệu luật cho phép. Vụ án đang trong quá trình giải quyết thì chủ tịch UBND Phường 7 ban hành Quyết định số 316/QĐ-UBND để điều chỉnh, bổ sung Quyết định số 117, mặc dù đã có những điều chỉnh nhưng Quyết định số 316 vẫn còn nội dung làm ảnh hưởng đến quyền lợi của mình nên bà Loan đã có đơn khởi kiện bổ sung yêu cầu Toà án huỷ quyết định 316, ngoài ra còn có yêu cầu bồi thường về vật chất và tinh thần.

Ngày 04/5/2017 Phiên toà sơ thẩm đã được diễn ra sau 01 lần bị hoãn do đơn yêu cầu của người đại diện theo uỷ quyền của người bị kiện.

Xác định vụ án không nặng về giá trị vật chất mà nặng về giá trị danh dự, uy tính của gia đình tôi cùng đồng nghiệp và chị Hồng Loan đã cùng nhau soi xét toàn bộ hồ sơ để chỉ ra những điểm sai của Quyết định 117 và 316.
Sau quá trình thảo luận chúng tôi đã chỉ ra những sai sót sau:

Quy trình thụ lý đơn khiếu nại.

Xét đơn khiếu nại ngày 06 tháng 10 năm 2014 của bà Hà.

Về yêu cầu giải quyết khiếu nại
Đơn khiếu nại của bà Hà mặc dù tiêu đề thể hiện là Đơn khiếu nại nhưng nội dung đơn lại không nêu YÊU CẦU GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI là vi phạm quy định tại Điều 8 Luật khiếu nại 2011, yêu cầu giải quyết khiếu nại là vấn đề cốt lõi của đơn khiếu nại, không có yêu cầu thì không thể có cơ sở để thụ lý giải quyết tuy nhiên chủ tịch Phường 7 vẫn thụ lý giải quyết là trái quy định của pháp luật. Ngoài ra tại Phiên Toà bà Hà đã khẳng định với hội đồng xét xử là đơn khiếu nại không phải do bà soạn thảo mà do con gái của bà soạn rồi đưa bà ký, bà không nắm được nội dung của đơn khiếu nại của bà là khiếu nại cái gì, bà chỉ biết ý chí của bà là khiếu nại để yêu cầu tháo dỡ cổng rào của nhà bà Loan.

Về nội dung khiếu nại:
Đơn khiếu nại của bà Hà thể hiện nội dung khiếu nại là khiếu nại hành vi hành chính của UBND Phường 7 đã chấp thuận cho bà Loan xây dựng cổng rào trên đất công cộng. Xét nội dung khiếu nại này của bà Hà là hoàn toàn không có cơ sở pháp lý bởi lẽ hành vi hành chính của UBND Phường 7 đối với việc chấp thuận cho bà Loan xây dựng cổng rào đã được UBND Phường 7 thu hồi theo công văn số 175/UBND ngày 11/92012(đã viện dẫn ở phần tóm tắt nội dung) vì vậy tại thời điểm bà Hà khiếu nại thì hành vi hành chính đã không còn tồn tại nên không thể thụ lý để giải quyết.

Xét thời hiệu khiếu nại.

Thời điểm bà Hà khiếu nại là ngày 10/6/2014, thời điểm bà Loan được UBND Phường 7 chấp thuận xây dựng cổng rào và bà Loan dựng cổng rào là tháng 01/2009, bà Hà đã biết sự việc này từ năm 2009 nhưng đến 2014 (sau 05 năm) mới có đơn khiếu nại trong khi bà Hà không hề gặp những sự kiện bất khả kháng hay sự kiện khách quan để kéo dài thời hiệu khiếu nại. Theo quy định tại Điều 9 luật khiếu nại 2011 thì thời hiệu khiếu nại lần đầu là 90 ngày kể từ ngày biết được quyết định, hành vi hành chính, chiếu theo quy định nêu trên thì thời hiệu khiếu nại theo đơn khiếu nại của bà Hà đã hết, vì vậy việc Chủ tịch UBND Phường 7 thụ lý đơn là vi phạm quy định tại Khoản 6, Điều 11, Luật khiếu nại 2011.

Xét quy trình giải quyết khiếu nại.

Về quy trình xác minh
Quyết định 117 có thể hiện việc người giải quyết khiếu nại có thành lập tổ xác minh để xác minh nội dung khiếu nại nhưng việc xác minh lại không thực hiện đúng thủ tục và không chính xác, cụ thể là không mời, triệu tập người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong quá trình xác minh, nội dung khiếu nại của bà Hà là khiếu nại hành vi chấp thuận của UBND Phường cho bà Loan xây dựng cổng rào nhưng lại đi xác minh cổng rào là không ăn nhập với nội dung khiếu nại, thậm chí đi xác minh cổng rào cũng không phù hợp với thực tế, cổng rào thực tế có 02 cánh nhưng kết quả xác minh chỉ thể hiện cổng rào 01 cánh!!!

Về tổ chức đối thoại
Quyết định số 117 có thể hiện trong quá trình giải quyết khiếu nại người khiếu nại có tổ chức đối thoại nhưng không đưa ra được căn cứ để đối thoại vì theo quy định tại Điều 30 Luật khiếu nại thì trong quá trinh giải quyết khiếu nại lần đầu chỉ tổ chức đối thoại khi kết quả xác minh và nội dung khiếu nại có sự khác nhau, tuy nhiên trong quá trình giải quyết khiếu nại của bà Hà thì không thể hiện sự khác nhau giữa nội dung khiếu nại và kết quả xác minh, việc chủ tịch UBND Phường 7 tổ chức đối thoại thể hiện sự tuỳ tiện trong việc áp dụng pháp luật vào quy trình giải quyết khiếu nại.

Xét về nội dung của Quyết định số 117.

Quyết định số 117 không thể hiện yêu cầu giải quyết khiếu nại của người khiếu nại là vi phạm quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 22, thông tư số 07/2013/TT-TTCP.

Tại mục II của Quyết định 117 thể hiện kết quả xác minh nội dung khiếu nại nhưng bên trong lại không thể hiện rõ kết quả xác minh nội dung khiếu nại liên quan đến nội dung khiếu nại của nguời khiếu nại mà lại nêu nội dung vụ việc và kết luận nội dung khiếu nại có cơ sở là không đúng với mục kết quả xác minh, bởi kết quả xác minh phải là những nội dung mà tổ xác minh đã xác minh được trong quá trình giải quyết khiếu nại nhằm giúp người giải quyết khiếu nại đưa ra kết luận khiếu nại phù hợp chứ không phải là phần kết luận khiếu nại.

Tại mục III của Quyết định 117 thể hiện kết quả đối thoại nhưng lại thể hiện nội dung về ngày giờ tổ chức đối thoại và thành phần tham gia đối thoại là hoàn toàn sai, bởi lẽ kết quả đối thoại chính là những nội dung được làm rõ tại buổi đối thoại, làm cơ sở cho việc đưa ra kết luận giải quyết khiếu nại chứ không phải ghi lại ngày giờ và thành phần tham gia đối thoại.

Tại mục IV của Quyết định thể hiện Kết luận giải quyết khiếu nại tuy nhiên lại không đưa ra căn cứ pháp lý là trái với quy định được hướng dẫn của biểu mẫu số 15, ban hành kèm theo thông tư số 07/2013/TT-TTCP.

Điều 1 của Quyết định 117 không thể hiện việc tiếp tục hay chấm dứt hành vi hành chính đối với hành vi hành chính bị khiếu nại mà lại đi công nhận nội dung khiếu nại là trái với hướng dẫn của biễu mẫu số 15, ban hành kèm theo thông tư số 07/2013/TT-TTCP.

Điều 2 của Quyết định 117 buộc bà Loan phải tháo dỡ cổng rào … là vượt quá nội dung yêu cầu khiếu nại của người khiếu nại.

Điều 3 của Quyết định 117 hướng dẫn cho bà Hà và bà Hồng Loan khiếu nại đến Uỷ ban nhân dân quận Bình Thạnh là sai, bởi lẽ theo quy định tại Điều 18 Luật Khiếu nại thì thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần 2 đối với Quyết định 117 là của Chủ tịch UBND quận Bình Thạnh, chứ không phải là của UBND quận Bình Thạnh.


Xét Quyết định 316.

Quyết định 316 sửa đổi, điều chỉnh Quyết định 117 về nội dung Quyết định và kết quả xác minh, đây cũng là 01 Quyết định trái pháp luật vì bản thân quy trình giải quyết khiếu nại 117 trái luật nên Quyết định 316 không thể khắc phục được những sai sót trước đó.

Những nội dung nêu trên đã được chúng tôi triển khai và xây dựng bảng danh sách câu hỏi để hỏi người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện tại phiên Toà và bản luận cứ cho người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của người bị kiện, tuy nhiên tại phiên Toà sơ thẩm thì người đại diện theo uỷ quyền của người bị kiện chỉ trả lời một vài câu hỏi ban đầu còn các câu hỏi tiếp theo được đặt ra thì không trả lời, tuy nhiên những câu hỏi vẫn được đặt ra và được thư ký phiên toà thể hiện đầy đủ vào biên bản phiên toà.




Thêm chú thích
Một số câu hỏi của người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của người bị kiện chuẩn bị sẵn

Ngoài ra nội dung đáng lưu ý là tại phiên toà Người khởi kiện vẫn khẳng định tại Toà là nếu các cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản,quyết định phù hợp với quy định của pháp luật thì xin TỰ NGUYỆN tháo dỡ cổng rào.

Tại phần tranh luận, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện đã nêu bật những sai sót của Quyết định 117 và 316 để thuyết phục Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện, phía người bị kiện và người bảo vệ quyền lợi ích của người bị kiện chỉ khẳng định Quyết định 117 và 316 đúng luật nhưng lại không hề phân tích và viện dẫn các căn cứ để thuyết phục hội đồng xét xử.


Kết thúc phần tranh luận, Hội đồng xét xử đã nghị án trong thời gian 45 phút và đã ra Quyết định nghị án kéo dài vì xét thấy thông qua diễn biến phiên toà, nội dung vụ án có nhiều tình tiết phức tạp cần phải cân nhắc, xem xét một cách kỹ lưỡng, mặc dù trước khi vào nghị án thì vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh phát biểu về nội dung vụ án và đề nghị với hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện với lý do là phần đất bà Hồ Thị Hồng Loan xây cổng rào là thuộc về phần đất công cộng mà không xem xét đánh giá gì về nội dung khiếu nại của bà Hà và quy trình giải quyết khiếu nại của người bị kiện cũng như những vấn đề mà phía người khởi kiện đã nêu lên tại phiên Toà. Tôi xác định việc vị đại diện Viện kiểm sát nhận định về việc bà Loan xây dựng trên đất công trong phần phát biểu quan điểm của mình là không chính xác, bởi lẽ phạm vi giải quyết vụ án là xác định tính hợp pháp của 02 Quyết định hành chính bị khiếu kiện và vấn đề bồi thường thiệt hại vì vậy cần tập trung đánh giá vào 02 Quyết định nêu trên chứ không phải là xét việc cổng rào xây dựng là đúng hay sai, đây là một nội dung khác không liên quan trong vụ án.

Hiện tại vẫn đang trong thời gian Hội đồng xét xử nghị án, chúng tôi sẽ cập nhật kết quả giải quyết vụ án ngay sau khi có kết quả chính thức, kính mong quý vị độc giả quan tâm theo dõi.

Một số điểm đặc biệt tại phiên toà

Dù chỉ là một phiên toà hành chính nhỏ, tuy nhiên rất nhiều người dân phường 7 và một số người quan tâm đến tham dự phiên toà để ủng hộ người khởi kiện với số lượng rất đông, khiến bảo vệ Toà án phải kéo thêm 03 băng ghế dài để đảm bảo cho người xem phiên Toà. 
Phía người bị kiện có mời luật sư để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình, điều mà chúng ta khó để nhìn thấy trong các phiên toà xử án hành chính, đặc biệt tại phiên Toà người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện lại đứng dậy để trả lời thay câu hỏi cho phía người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan - bà Hà (tuy nhiên ngay lập tức đã chịu sự phản đối của phía người khởi kiện và chủ toạ phiên Toà).
Người đại diện theo uỷ quyền của người bị kiện là nữ phó chủ tịch Phường, có trình độ cử nhân luật nhưng không trả lời câu hỏi của người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người khởi kiện và những người tham gia tố tụng khác và có thái độ không chuẩn mực tại phiên toà trước sự chứng kiến của cơ quan báo chí và nhiều người dân phường 7, thậm chí khi hỏi phần bút tích của bà ấy khi bà ấy còn là cán bộ địa chính, tham mưu cho lãnh đạo chấp thuận cho bà Loan dựng cổng rào thì bà ấy cũng không nhận.
Vị đại diện viện kiểm sát khi phát biểu quan điểm của mình lại sử dụng văn bản chuẩn bị sẵn và có dấu giáp lai trong nội dung bài phát biểu trước sự ngỡ ngàng của nhiều người tham dự phiên Toà, để có người phải thốt lên "cầm đọc vậy thì án bỏ túi rồi chứ còn gì nữa".
Trân trọng.
Quyết Quyền

Sunday, April 9, 2017

Luật sư không phải tố giác thân chủ


Hiện nay, Bộ luật Hình sự năm 2015 đang trong quá trình được Quốc Hội khắc phục những sai sót, để đưa vào thi hành trong thời gian sớm nhất. Liên quan đến vấn đề Luật sư có phải tố giác tội phạm là thân chủ của mình trong quá trình hành nghề hay không, Bộ luật hình sự 2015 có Quy định bổ sung đối với việc Không tố giác tội phạm so với Bộ luật Hình sự 1999, cụ thể có thêm quy định cụ thể tại khoản 3, Điều 19 quy định:

"3. Người bào chữa không phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều này trong trường hợp không tố giác tội phạm do chính người mà mình bào chữa đã thực hiện hoặc đã tham gia thực hiện mà người bào chữa biết được khi thực hiện nhiệm vụ bào chữa, trừ trường hợp không tố giác các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác quy định tại Điều 389 của Bộ luật này" 

Hiện nay trên Mạng xã hội Facebook xuất hiện một số quan điểm của nhiều luật sư cho rằng khoản 3 Điều 19 BLHS 2015 quy định như trên là không phù hợp mà cần có quy định cho Luật sư được loại trừ trừ trách nhiệm hình sự khi không tố giác thân chủ mình đối với mọi tội phạm thì luật sư mới tránh được các tai nạn nghề nghiệp và mạnh dạn trong quá trình hành nghề của mình.

Quan điểm cá nhân của tôi thì cho rằng việc BLHS 2015 quy định tại khoản 3, Điều 19 là phù hợp, luật sư sẽ không gặp khó khăn hay có nguy cơ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội không tố giác tội phạm (đối với thân chủ), bởi lẽ tại Khoản 1, Điều 390 Bộ luật Hình sự 2015 có quy định:

"1. Người nào biết rõ một trong các tội phạm được quy định tại Điều 389 của Bộ luật này đang được chuẩn bị, đang hoặc đã được thực hiện mà không tố giác, nếu không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 19 của Bộ luật này, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm."

Điều đó có nghĩa luật sư chỉ bị khởi tố khi luật sư BIẾT RÕ về tội phạm đang được chuẩn bị, đang hoặc đã được thực hiện, trong khi đó nguyên tắc của Bộ luật Tố tụng hình sự quy định trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, hơn ai hết Luật sư là người am hiểu pháp luật vì vậy để xác định luật sư BIẾT RÕ thì đó là vấn đề không tưởng.

Lỗi lập pháp.

Trong khi tại Điều 19 BLHS 2015 có đến 02 khoản (Khoản 2 và Khoản 3) quy định về những chủ thể không phải chịu trách nhiệm hình sự đối với Tội phạm Không tố giác tội phạm, thế nhưng tại Điều 390 Bộ luật hình sự 2015 chỉ đề cập đến khoản 2, Điều 19 mà không đề cập tới khoản 3 là một sai sót trong việc lập pháp, dẫn đến quy định tại Khoản 3, Điều 19 không có ý nghĩa.
Theo tôi thì Khoản 1, Điều 390 phải quy định như sau: 1. Người nào biết rõ một trong các tội phạm được quy định tại Điều 389 của Bộ luật này đang được chuẩn bị, đang hoặc đã được thực hiện mà không tố giác, nếu không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, Khoản 3 Điều 19 của Bộ luật này, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Trên đây là quan điểm của tác giả liên quan đến khoản 3, Điều 19 Bộ luật Hình sự 2015 xin gửi đến quý độc giả, mong nhận được nhiều sự đóng góp của quý vị độc giả.
Quyết Quyền







Thursday, March 30, 2017

Tâm sự nghề Luật sư

Luật sư có thể trải qua ngàn vụ án, thắng thua trong tích tắc, còn thân chủ- có khi cả đời mới một lần đụng chuyện và nổi hay chìm chỉ trong một bản án.
Đó là nhận định của luật sư Nguyễn Thành Công (Đoàn Luật sư TP HCM) trong thực trạng nhiều luật sư sử dụng mạng xã hội gây áp lực đến cơ quan công quyền, tạo sự hả hê cho người nhà thân chủ. Báo Người Lao Động xin đăng ý kiến của luật sư về vấn đề này.
Nếu hỏi chọn bảo vệ đối tượng nào thì câu trả lời của tôi là việc bảo vệ thân chủ là nghĩa vụ tối cao.
Trong học và hành luật ai cũng nắm nguyên tắc pháp chế XHCN. Khái niệm và định nghĩa thì dài dòng nhưng nôm na là phải bảo vệ cái to nhất là pháp luật rồi mới đến các chủ thể, nội dung khác. Với luật sư thì buộc họ phải đặt thân chủ mình xuống hàng thứ 2.
Đừng nên nói rằng chỉ có nước ta mới có cái nguyên tắc ấy. Thật ra hệ thống pháp luật là công cụ để quản lý xã hội của Nhà nước vì vậy hầu như các nước đều giương cao nguyên tắc này, tức ý thức chấp hành pháp luật là tối cao. Tuy nhiên, phân tầng cho từng loại xã hội thì nguyên tắc này được ứng dụng và sử dụng khác nhau. Cũng từ đó nhiều nước đặt phần thưởng cho việc phát hiện ra các kẽ hở của hệ thống luật pháp nước đó đối với mọi đối tượng. Và luật sư rất thường được …..lãnh thưởng.
Phiên tòa có nhiều luật sư tham gia bào chữa
Luật sư suốt ngày chỉ xoáy xoay vào các quy định pháp luật nhằm tìm ra chỗ mà chen vào để bảo vệ tốt nhất cho thân chủ. Nhưng phải nhớ đó là sự lách luật chứ không phải làm trái pháp luật rồi che giấu để không bị phát hiện. Xe gắn máy thấy vạch rời mà chuyển làn sang làn xe hơi để vượt qua phương tiện khác hay vật cản. Điều đó nguy hiểm vì lưu thông không đúng làn đường nhưng pháp luật cho phép khi việc ấy chỉ tạm thời chứ không được sử dụng làn ô tô cho xe máy của mình. Đó là cái lách trong thực tế cuộc sống.
Lách luật cũng như thế. Tuy nhiên, có nhiều người lại nhầm lẫn giữa lách luật với làm trái pháp luật mà chưa bị phát hiện. Luật sư càng phải tìm ra nhiều kẽ hở ấy để làm cơ sở mà bảo vệ cho thân chủ, tìm ra được càng nhiều thì càng tăng độ giỏi của mình. Bởi để hình thành nên một quy định, một chế định, quy phạm hay luật, bộ luật thì cả rừng các nhà chuyên môn vào cuộc nhưng quy định đặt ra vẫn không thể bịt kín hết mọi chỗ hở. Vậy người tìm ra được kẽ hở ấy phải là người giỏi. Nhà nước cần khuyến khích cho cái sự tìm ra kẽ hở ấy mà còn tìm cách trám lại cho hoàn chỉnh. Vì thế cả vấn đề phần thưởng cũng là sáng kiến hay và nên làm.
Khi thực hiện nghĩa vụ bảo vệ cho thân chủ, tôi phải tìm đủ mọi phương cách trong đó khai thác mạnh hệ thống pháp luật giăng mắc kia để tạo một điểm tựa cho sự phản bác, cáo buộc.
Đó là nói về vấn đề bảo vệ cái nào và điều gì. Thế có phải vì bảo vệ cho thân chủ mà ta xem nhẹ pháp luật hay dìm các đại diện của cơ quan tố tụng hay không? Chắc chắn là không.
Muốn ta lên cao thì không phải bằng cách dìm người ta xuống thấp. Các trận tranh tài thể thao sau khi kết thúc thì cả người thắng lẫn kẻ thua đều khen nhau. Người thua công nhận vì đối thủ quá hay nên ta mới thua, chứ thua một kẻ xoàng thì ta còn tệ hơn kẻ ấy. Vì vậy càng nâng đối thủ thì vai của ta càng cao. Bạn thắng thì khen kẻ thua, bởi kẻ thua quá giỏi tức ta thắng được người giỏi mà. Như thế nguyên tắc nâng cao đối thủ luôn đúng, tất nhiên đúng trong trường hợp cùng chính trực, dưới thắt lưng thì không kể vào đây.
Trong trận chiến pháp lý thì có khác một chút, bởi ở tính phức tạp và quá nhiều các quy định mà không phải ai cũng đã đọc hoặc nghiền ngẫm tới. Có thể chê bai người có vị trí, thẩm quyền ấy nhưng không trang bị cho mình đủ lượng kiến thức để hành xử đúng hay quá cố chấp không dung nạp luận lý đúng. Tuy nhiên việc tung hô thân chủ của mình là người đã thực hiện hành vi tội phạm và đối kháng với các cơ quan tố tụng thì không ổn lẫn không được. Dù thấy không ít những điều trái ngang nhưng tôi có niềm tin rằng đó không phải là số nhiều.
Nghề luật sư bắt buộc loại trừ các câu hỏi với thân chủ “ông/bà/anh/chị…. có thực hiện hành vi phạm tội đó không? Có đâm/chém/giết.. người đó không….” mà có hệ thống các câu hỏi khác “nghệ thuật” hơn để nắm bắt sự thật. Vụ án oan sai là không ít nhưng không thể nói là nhiều. Nhiều ở đây là tôi tính ở tỷ lệ vài phần trăm. Nhưng nhân nó thành điển hình cho cả một nền tư pháp thì không được.
Với tôi, khi ra tòa tôi luôn thấy mình đang thực hiện một trọng trách và luôn ưu tư. Trọng trách bởi số phận pháp lý của thân chủ có được trắng án hay gia giảm chút nào? Còn ưu tư thì luôn tự hỏi mình làm gì? Có làm đúng không? Rồi như thế nào là đúng trong hành nghề luật sư?
Án dân sự thì có bên thắng nên phải có bên thua và người thua không hẳn họ không có lý mà còn vì nhiều lý do khác nhưng cái thắng ắt không được đạp qua đạo đức.
Án hình sự, cái sự thắng thua không rõ như phi hình sự nhưng đó là sự được hoặc được ít, không được. Chọn cho mình kết quả cuối cùng nào luôn là sự suy tính lớn, rất lớn của nghề nghiệp. Được vạ thì má đã sưng, trạng chết chúa cũng băng hà… là những dằn vặt lớn khi tự hỏi lợi ích mình đang mang lại cho thân chủ là gì. Dung hòa giải pháp và kết quả tốt nhất luôn được đặt ra chứ không phải sự thắng thua. Thắng nhưng hệ lụy thì vô cùng là không thể chấp nhận.
Như thế cái sự tiến lùi trong từng bước đi được cân nhắc thật cẩn thận. Chẳng để thỏa mãn mình thậm chí còn nén mình lại để thân chủ đạt được mục đích, có được kết quả tốt thì luật sư cũng sẵn sàng.
Luật sư có thể trải qua ngàn vụ án, ở đó thắng thua, được hơn chỉ trong tích tắc, còn thân chủ - có khi cả đời họ mới một lần đụng chuyện và cuộc đời nổi hay chìm chỉ trong một bản án ấy. Vì vậy không thể vô cảm, bất cần hay chỉ nhằm thỏa mãn bản thân mà thân chủ phải nhận lãnh một kết cục tồi tệ.
Luật sư Nguyễn Thành Công (nguồn nld.com.vn)


Sunday, June 21, 2015

Họ, hụi, biêu, phường và những quy định của pháp luật bạn cần biết

Hụi là gì ?
Hụi (hay còn gọi là “họ”) là một hình thức huy động vốn theo kiểu quan hệ vay mượn tài sản/tiền trước rồi trả sau - giữa một nhóm người với nhau. Chơi hụi khá phổ biến trong đời sống người Việt và đã có từ rất lâu. Không hiểu vì sao và từ bao giờ, người ta hay nói là “chơi” hụi. Tất cả những người tham gia chơi hụi với nhau sẽ tập hợp thành một “dây hụi”, mỗi thành viên là một “hụi viên”, người đứng ra tổ chức, điều hành, quản lý và thu tiền gọi là “chủ hụi”.Mặc dù có thể có sự khác biệt đôi chút mô hình và hình thức chơi hụi, nhưng về cơ bản, có thể mô tả về mô hình một dây hụi như sau:Giả sử có 10 người là ông Một, bà Hai, ông Ba, bà Bốn … và 10 người này cùng tham gia chơi hụi với nhau, tạo thành một dây hụi.

Sau mỗi một chu kỳ cố định về thời gian ( thường là tháng hoặc tuần, có khi là ngày), chẳng hạn là đầu tháng, những người chơi hụi sẽ có nghĩa vụ đóng tiền ( gọi là tiền hụi) cho người chủ hụi.
Bài viết liên quan: 
Khởi kiện vụ án dân sự những điều cần biết
Số tiền đóng hụi là bao nhiêu do các hụi viên thống nhất từ trước khi chơi. Chẳng hạn là mỗi tháng đóng 1 triệu đồng. Khi đó, dây hụi này sẽ là “hụi tháng, 1 triệu đồng”. Với 10 người tham gia như trên, mỗi tháng chủ hụi sẽ thu vào được 10 triệu đồng. Thời gian đóng tiền sẽ là 10 tháng – tương ứng với 10 người. Mỗi tháng, số tiền hụi thu vào sẽ giao cho một người - gọi là người “hốt hụi” trong tháng. Những người đã hốt hụi xong thì trở thành “hụi chết”.Và sẽ lần lượt từng người hốt hụi cho đến khi tất cả đều hốt hụi xong. Khi đó xem như kết thúc cuộc “chơi hụi”.

Ví dụ: 10 người nói trên, tháng thứ nhất ông Một là người hốt hụi. Như vậy, ông Một sẽ nhận 10 triệu đồng ( trong đó có 1 triệu đồng do chính mình góp và 9 triệu đồng do các thành viên còn lại đóng vào). Qua tháng 2, bà Hai là người hốt hụi, cũng sẽ nhận 10 triệu đồng ...vv.
Nếu quan sát kỹ trường hợp ông Một sẽ thấy như nhau: khi tham gia vào dây hụi, dù chỉ bỏ ra 1 triệu đồng ở tháng thứ nhất, nhưng ông đã được nhận ngay 10 triệu đồng. Số tiền 10 triệu đồng này có thể xem như ông đã “vay” trước của những người còn lại trong dây hụi. Sau đó hàng tháng ông đóng “hụi chết” 1 triệu đồng, đóng đủ 9 tháng và xem như đang “trả góp” cho 9 người kia số tiền mà mình đã vay (khi hốt hụi).
Ví dụ như trên là dạng “đơn giản hóa” để dễ hình dung. Thực tế không hẳn là cứ tới đầu tháng thì ai cũng phải đóng 1 triệu đồng, mà sẽ căn cứ vào kết quả “khui hụi” (hay còn gọi là “mở hụi” hàng tháng.
Vậy khu hụi là thế nào ? Vào mỗi kỳ đóng tiền hàng tháng, người chủ hụi sẽ tiến hành việc “khui hụi” bằng cách mời các hụi viên chưa hốt hụi tham gia “bỏ hụi” – giống như hình thức một cuộc đấu giá vậy. Hụi viên nào muốn có tiền (hốt hụi) trong tháng đó thì sẽ tham gia vào việc đấu giá về tiền lãi. Người nào đưa ra giá bỏ hụi cao nhất sẽ được xem là thắng và có quyền hốt hụi tháng đó.
Theo ví dụ trên, giả sử tới tháng thứ năm, ông Bảy và bà Tám đều muốn hốt hụi nên cùng tham gia bỏ hụi. Ông Bảy ghi vào tờ phiếu của mình là “50 ngàn đồng”, còn bà Tám ghi “60 ngàn đồng”. Khi người chủ hụi mở hai tờ phiếu, thấy tờ phiếu của bà Tám ghi số tiền cao hơn. Như vậy, bà Tám là người thắng, được hốt hụi trong tháng đó.
Khi đó, vì bà Tám ghi “60 ngàn đồng”, nên xem như bà Tám phải trả số tiền này cho các hụi viên chưa hốt hụi còn lại. Vì đây là tháng thứ năm, nên đã có 5 hụi viên hốt hụi, còn lại 5 người “hụi sống”. Bà Tám sẽ phải trả thay cho 5 người này - mỗi người 60 ngàn đồng. Tức là thay vì phải đóng đủ 1 triệu đồng, thì 5 người này sẽ chỉ phải đóng 940.000 đồng. Số tiền 60 ngàn đồng chính là số tiền lời của những người chưa hốt hụi.
Như vậy, có thể thấy người nào càng chậm hốt hụi thì sẽ càng có nhiều tiền lời, càng được lợi. Trong khi đó, những người hốt hụi trước thì sẽ không được tiền lời, mà sẽ phải đóng “hụi chết” mỗi tháng, tức đóng đủ 1 triệu đồng.
Việc chơi hụi như trên có thể nói là khá phổ biến trong cả nước, nhất là ở các đô thị lớn như TP.HCM, lan cả vào các cơ quan, doanh nghiệp.
Trên thực tế, có nhiều người thậm chí sống bằng nghề làm chủ hụi – kiếm tiền từ số tiền lời - còn gọi là “tiền thảo”, “tiền sâu” - được trích ra từ tiền bỏ hụi của các hụi viên trong tháng. Số “tiền thảo” thường có giá trị bằng khoảng 50% số tiền lãi mà hụi viên bỏ hụi phải trả trong kỳ. Chẳng hạn như ở ví dụ trên, số tiền 60 ngàn đồng thực chất sẽ được chia cho người chủ hụi hưởng 30 ngàn đồng.
Có lợi, nhưng cũng rất rủi ro


Qua mô hình chơi hụi như ở trên, nếu nhìn theo phương diện tích cực, có thể nói về bản chất việc chơi hụi khá hay, tạo điều kiện để các cá nhân có thể có được một số tiền lớn vay từ những người cùng tham gia, thay vì phải đi vay của ngân hàng, lại không cần thủ tục phiền phức gì cả. Hình thức góp, trả cũng đơn giản, nhẹ nhàng, thuận tiện.
Bản thân tôi cũng đã từng chơi hụi và nhờ chơi hụi (chơi một lúc 2 dây hụi khác nhau) mà tôi có điều kiện huy động được một số tiền kha khá, để … xây nhà (cấp 4)!
Tuy nhiên, có thể khẳng định là chơi hụi có tính rủi ro rất cao. Thậm chí rất rất cao – nếu rơi vào các trường hợp như phân tích dưới đây.
Trước hết, có thể thấy việc chơi hụi, sự liên kết giữa các thành viên tham gia hoàn toàn mang tính “tín chấp”, tin tưởng nhau là chính mà không có tài sản thế chấp, bảo đảm. ( Hãy hình dung Ngân hàng chỉ cho vay vài chục triệu đồng đã đòi thế chấp nhà, giữ bản chính giấy tờ nhà).
Dây hụi thực chất là một “vòng dây xích” hình tròn, mỗi thành viên tham gia chính là một mắt xích. Chỉ cần một mắt xích bị đứt (không đóng tiền hụi) thì sợi dây xích sẽ bị đứt, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của những người chưa hốt hụi. Ràng buộc đến trách nhiệm của người chủ hụi…vv. Trường hợp như vậy người ta vẫn hay gọi là “bể hụi”.
Hãy hình dung dây hụi nêu ở ví dụ trên, chẳng hạn đến tháng thứ ba, bất ngờ một hụi viên không còn khả năng đóng hụi nữa. Khi đó, dây hụi chỉ còn có 9 người đóng tiền, nên thay vì thu được 10 triệu đồng thì sẽ chỉ còn 9 triệu đồng. Việc thiếu 1 triệu này sẽ giải quyết thế nào ? Mà về nguyên tắc là phải bù vào. Nhưng lấy tiền ở đâu, lấy của ai mà bù vào đây? Qua các tháng sau, dây dụi sẽ tiếp tục bị thiếu 1 triệu đồng. Chỉ cần các thành viên chơi hụi khác biết được, và/hoặc người hụi viên khó khăn “bỏ trốn” chẳng hạn, thì khi đó mọi người sẽ có cảm giác vô cùng náo loạn, mất bình tĩnh.
Tâm lý đó sẽ “lây nhiễm” qua những người khác, làm cho mọi người đều cảm thấy không an tâm để tiếp tục đóng tiền vào dây hụi, vì sợ rủi ro. Lúc này sẽ dẫn đến cảnh người chủ hụi hoặc là phải đến nhà hụi viên dùng “biện pháp mạnh” để đòi tiền (tiền đóng hụi) hoặc chính người chủ hụi phải tự bỏ tiền túi ra đóng thay cho con hụi để duy trì dây hụi (nhưng khả năng này hầu như là rất thấp và chỉ đối với số tiền nhỏ) hoặc là chủ hụi phải … bỏ trốn !
Nhưng rủi ro không phải chỉ có vậy. Nguy hiểm nhất là trường hợp nhiều người tham gia vào dây hụi do chủ hụi tổ chức mà những người chơi thậm chí không biết mặt nhau, không biết có bao nhiêu người chơi, thật giả lẫn lộn. Không loại trừ khả năng người chủ hụi, vì mục đích xấu, đã làm ra những dây hụi ma (không có thật), hoặc ghi khống, tăng giảm số tiền đóng hụi, thời gian đóng hụi. Chẳng hạn có 10 người chơi thì nói là 20 người, số tiền đóng là 1 triệu/tháng thì nói là 3 triệu/tháng, giấy tờ sổ sách không rõ ràng, sau khi thu tiền, thay vì giao cho người hốt hụi trong tháng thì thực sự … không có ai cả. Sau khi gom tiền được vài tháng, chủ hụi … hô biến.
Những trường hợp như vậy, người chơi hụi xem như đã trở thành nạn nhân của sự lừa đảo hoặc sự nhẹ dạ, chủ quan của chính mình. Mà việc giải quyết tranh chấp thì không hề đơn giản, giấy tờ chứng cứ mơ hồ ( nhiều khi người chơi hụi không có đến 1 tấc giấy trong tay !).

Pháp luật không cấm chơi hụi

Việc tham gia chơi hụi thực chất là một loại giao dịch dân sự (quan hệ vay mượn tiền theo thỏa thuận) giữa các cá nhân với nhau.


Năm 2005, Bộ luật Dân sự được bổ sung sửa đổi đã lần đầu tiên có quy định về hoạt động chơi hụi. Theo đó, việc chơi hụi được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

Điều 479 Bộ luật Dân sự 2005 quy định như sau:
1. Hụi ( hay còn gọi là họ, biêu, phường) là một hình thức giao dịch về tài sản theo tập quán trên cơ sở thoả thuận của một nhóm người tập hợp nhau lại cùng định ra số người, thời gian, số tiền hoặc tài sản khác, thể thức góp, lĩnh họ và quyền, nghĩa vụ của các thành viên.
2. Hình thức hụi nhằm mục đích tương trợ trong nhân dân được thực hiện theo quy định của pháp luật.
3. Nghiêm cấm việc tổ chức hụi dưới hình thức cho vay nặng lãi.
Cuối năm 2006, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 144/2006 quy định rõ hơn về các nguyên tắc và điều kiện tổ chức chơi hụi được xem là hợp pháp.
Như vậy, chơi hụi không bị cấm, không bị xem là hành vi vi phạm pháp luật. Về nguyên tắc, mọi người có thể và có quyền chơi hụi để có được lợi ích cho mình.
Tuy nhiên, chính vì việc chơi hụi có tính rủi ro rất cao, nên tốt nhất là chỉ nên chơi hụi khi bảo đảm tính an toàn và nằm trong khuôn khổ của pháp luật quy định. Có như vậy, mới có thể tránh hoặc chí ít là hạn chế tối đa những rủi ro/hậu quả đáng tiếc có thể xảy ra.
Trên thực tế, đã có biết bao nhiêu trường hợp nhà tan cửa nát, các vụ giật hụi, bể hụi với số tiền lên đến hàng trăm triệu, hàng tỷ hay thậm chí hàng chục tỷ đồng đồng. Đó là những bài học kinh nghiệm và nhãn tiền mà mọi người cần lưu ý, trước khi quyết định có nên tham gia vào một dây hụi hay không.

Chỉ nên chơi hụi khi thấy rõ sự an toàn

Hụi an toàn, nói một cách đơn giản, là không tiềm ẩn hay có các yếu tố rủi ro, mờ ám như đã nói ở trên. Hoặc là phải có cách làm rõ, khắc phục và hạn chế những yếu tố rủi ro đó.
Trước hết, khi tham gia chơi hụi, người chơi cần hiểu rõ quy định của pháp luật về chơi hụi, hiểu rõ bản chất của mô hình chơi hụi.
Và, người chơi hụi cần lưu ý những điều sau:
- Chỉ tham gia vào dây hụi do người chủ hụi có độ tin cậy cao tổ chức. Việc này không chỉ đánh giá qua bề ngoài hào nhoáng, ăn to nói lớn, nhà to cửa rộng… Mà phải xem đến uy tín, nhân thân, thậm chí gia đình của người chủ hụi.

- Nhất thiết phải biết rõ, thậm chí chọn lựa những người cùng tham gia chơi hụi đang làm việc ở đâu, nguồn thu nhập như thế nào, phải có khả năng tham gia lâu dài và đóng hụi đầy đủ. Nên nhớ có không ít trường hợp hụi viên vừa hốt hụi xong là bỏ trốn không tiếp tục đóng hụi nữa gây thiệt hại và ảnh hưởng đến các thành viên chơi hụi khác.
- Việc chơi hụi nhất thiết phải có sổ sách rõ ràng, chứng từ đầy đủ, chính xác và chi tiết về diễn biến của dây hụi. Ngoài số liệu tiền bạc, ngày tháng, chủ hụi và các thành viên nên lập thành văn bản thỏa thuận về việc chơi hụi, có điều khoản quy định rõ về chu kỳ đóng tiền, số tiền đóng, hình thức thanh toán, trách nhiệm của chủ hụi, quyền và nghĩa vụ của các hụi viên, vấn đề giải quyết tranh chấp … - tóm lại là như một bản hợp đồng vay mượn tiền của nhau. Ngoài ra còn phải có sổ phụ cấp cho các hụi viên…. Đây là những chứng cứ hết sức quan trọng, và là cơ sở để Tòa án xem xét, giải quyết khi xảy ra tranh chấp, bể hụi…
- Khi xảy ra tranh chấp về hụi, các bên nên chủ động chấm dứt dây hụi, thương lượng, hòa giải với nhau, có thể lập thành bản thỏa thuận mới theo hướng chốt nợ, đưa ra thời điểm trả nợ …vv. Nếu không hòa giải, thương lượng với nhau được thì người bị thiệt hại nên khởi kiện ra Tòa án, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Để biết rõ hơn quy định của pháp luật liên quan đến việc chơi hụi, xin mời quí vị xem thêm bài viết giới thiệu về Nghị định 144/2006 với tên gọi “Quy định về việc chơi hụi”, có thể xem như là phần tiếp theo của bài viết này.

Luật sư TRẦN HỒNG PHONG
Theo: http://ecolaw1.blogspot.com/