Sa
thải là một trong ba hình thức xử lý kỷ luật lao động và đó cũng chính là hình
thức thức xử lý kỷ luật nặng nhất đối với người lao động vi phạm kỷ luật trong
quá trình thực hiện hợp đồng lao động.
Theo
quy định tại Điều 126 Bộ luật Lao động 2012 thì hình thức xử lý kỷ luật sa thải sẽ được áp dụng trong các trường hợp sau:
1. Người
lao động có hành vi trộm cắp, tham ô, đánh bạc, cố ý gây thương tích, sử dụng
ma tuý trong phạm vi nơi làm việc, tiết lộ bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ,
xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của người sử dụng lao động, có hành vi gây thiệt
hại nghiêm trọng hoặc đe doạ gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng về tài sản, lợi
ích của người sử dụng lao động;
2. Người
lao động bị xử lý kỷ luật kéo dài thời hạn nâng lương mà tái phạm trong thời
gian chưa xoá kỷ luật hoặc bị xử lý kỷ luật cách chức mà tái phạm.
3. Người
lao động tự ý bỏ việc 05 ngày cộng dồn trong 01 tháng hoặc 20 ngày cộng dồn
trong 01 năm mà không có lý do chính đáng.
So
với quy định tại Điều 85 của Bộ luật Lao động 1994 thì căn cứ để áp dụng biện
pháp xử lý kỷ luật bằng hình thức sa thải không khác nhau nhiều. Tuy nhiên hệ
quả của việc sa thải sai theo quy định của hai văn Bộ luật có sự khác biệt nhất
định, bài viết này tôi xin gửi đến quý đọc giả sự khác biệt nhau cơ bản về hệ
quả của việc "sa thải sai" giữa Bộ luật Lao động 1994 ( được sửa đổi bổ sung vào
các năm 2002;2006;2007) và Bộ luật Lao động 2012.
Theo
quy định tại Điểm b, Khoản 1, Điều 38 Bộ luật lao động 1994 thì việc xử lý kỷ
luật lao động bằng hình thức sa thải được xem là một hành vi đơn phương chấm dứt
hợp đồng lao động vì vậy khi người sử dụng lao động ra quyết định sa thải sai
thì phải chịu những hậu quả pháp lý theo quy định tại Khoản 1, Điều 41 Bộ luật
lao động năm 1994: “Điều 41
1- Trong trường
hợp người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật
thì phải nhận người lao động trở lại làm công việc theo hợp đồng đã ký và phải
bồi thường một khoản tiền tương ứng với tiền lương và phụ cấp lương (nếu có)
trong những ngày người lao động không được làm việc cộng với ít nhất hai tháng
tiền lương và phụ cấp lương (nếu có).
Trong trường hợp
người lao động không muốn trở lại làm việc, thì ngoài khoản tiền được bồi thường
quy định tại đoạn 1 khoản này, người lao động còn được trợ cấp theo quy định tại
Điều 42 của Bộ luật này.
Trong trường hợp
người sử dụng lao động không muốn nhận người lao động trở lại làm việc và người
lao động đồng ý thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại đoạn 1 khoản này
và trợ cấp quy định tại Điều 42 của Bộ luật này, hai bên thỏa thuận về khoản tiền
bồi thường thêm cho người lao động để chấm dứt hợp đồng lao động.”
Tuy
nhiên, kể từ ngày 01 tháng 5 năm 2013 ngày Bộ luật Lao động năm 2012 có hiệu lực
thi hành thì hậu quả pháp lý đối với việc “sa thải sai” không giống như quy định
trước đây nữa, bởi lẻ.
Điều
38 Bộ luật Lao động năm 2012 không còn quy định sa thải là một trong những trường
hợp người sử dụng lao động được quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, đồng thời Bộ luật Lao động năm 2012 đã “bổ
sung” thêm khái niệm Đơn phương chấm dứt
hợp đồng trái pháp luật tại Điều 41: “Đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật là các trường hợp chấm dứt hợp
đồng lao động không đúng quy định tại các Điều 37, 38 và 39 của Bộ luật này”.
Điều đó chứng tỏ việc sa thải sai không phải là hành vi đơn phương chấm dứt hợp
đồng lao động trái pháp luật mà đó là việc áp dụng biện pháp xử lý kỷ luật
không đúng quy định của pháp luật. Do “sa thải sai” không còn là hành vi đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật nên người lao động không thể dựa
vào quy định tại Điều 42 để yêu cầu người sử dụng lao động chịu những hệ quả
pháp lý theo quy định tại điều luật, đồng thời những quy định của Bộ luật Lao động
năm 2012 không có quy định để giải quyết hậu quả pháp lý đối với trường hợp người
sử dụng lao động áp dụng biện pháp xử lý kỷ luật lao động bằng hình thức sa thải.
Như
vậy, nếu xét về góc độ câu chữ của điều luật trong Bộ luật Lao động 2012 thì nếu
người lao động bị xử lý kỷ luật sa thải sai sẽ không biết căn cứ vào đâu để khởi
kiện yêu cầu bồi thường. Nhưng xét về bản chất thì việc “sa thải sai” đó cũng
là một hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng trái luật vì nó xuất phát từ ý chí
chủ quan của người sử dụng lao động dẫn đến việc chấm dứt hợp đồng lao động,
xâm phạm đến quyền lợi của người lao động. Điều này sẽ dẫn đến hệ quả là khi có
tranh chấp lao động về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải, phía người
sử dụng lao đông có thể bám vào các quy định hiện hành của pháp luật để bác bỏ
những nghĩa vụ của mình, còn người lao động thì phải chịu nhiều thiệt thòi.
Hi
vọng trong thời gian tới cơ quan chức năng cần có hướng dẫn cụ thể về vấn đề
này.
QUYETQUYEN
Xin hỏi tác giả bài viết Nguyễn Quyết Quyền. Vì sa thải đã không còn là đơn phương chấm dứt hợp đồng. Vậy trong trường hợp sa thải trái luật thì việc giải quyết quyền lợi cho bên còn lại phải áp dụng quy định nào của bộ luật mới ? Và thủ tục xử lý kỷ luật sa thải có còn là căn cứ xác định sa thải trái luật nữa hay không ?
ReplyDeleteXin cảm ơn !
Chào bạn Nặc danh 23:24 Ngày 27 tháng 11 năm 2013.
DeleteỞ trong bài viết thì tác giả cũng đã nhấn mạnh ở đây là căn cứ vào câu chữ của luật quy định, thì sa thải sai không thuộc trường hợp đơn phương chấm dứt HĐLĐ nữa.
Tuy nhiên khi có tranh chấp xảy ra thì vẫn phải giải quyết dựa trên bản chấn của vấn đề, sa thải về bản chất nó xuất phát từ ý chí của người sử dụng lao động vì vậy trường hợp này khi có tranh chấp xảy ra thì các Tòa án vẫn căn cứ vào quy định về đơn phương chấm dứt HĐLĐ để giải quyết. Khi xác định việc sa thải sai thì Tòa vẫn áp dụng các hệ quả của việc Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động.
Trân trọng!
Cảm ơn pháp luật cho mọi người đã giải đáp cho tôi
ReplyDeletethuong.hx@gmail.com
ReplyDeletekhoan 8 Dieu 36 BLLD 2012 da noi ro
Chào bạn Nặc danh 21:56
ReplyDeleteKhoản 8 Điều 36 Bộ luật Lao động 2012 quy định như sau:
8. Người lao động bị xử lý kỷ luật sa thải theo quy định tại khoản 3 Điều 125 của Bộ luật này.
Tôi không biết căn cứ vào đâu mà bạn cho rằng khoản 8 đã quy định rõ?
Các bạn xem thông tư 95/2013 đã quy sa thải sai thì phải nhận lại và trả lương cho thời gian sa thải sai. Hết
ReplyDeleteTòa ko thể xử chỉ căn cứ vào bản chất hay không phải bản chất, vì việc này rất mơ hồ. Khi xử lý thì cần phải dựa vào những quy định cụ thể, ví dụ luật ko quy định như thế nào là bản chất của đơn phương chấm dứt hdld, do đó ko thể tự quy về sa thải laf đơn phương chấm dứt như vậy đc. Tòa chỉ có thể áp dụng như nghị định 93/2013 mục sa thải sai lý do.
ReplyDeleteXin lỗi, nghị định 95
ReplyDeleteChào bạn!
ReplyDeletePhạm vi điều chỉnh của Nghị định 95/2013/NĐ-CP là "Nghị định này quy định về hành vi vi phạm, hình thức xử phạt, mức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả, thẩm quyền xử phạt, thủ tục xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội và đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng."
Chiếu theo quy định này thì Tòa án không thể xử phạt và cũng không thể áp dụng NĐ 95/2013 để giải quyết việc này.
Trân trọng!
SA THẢI SAI PHẢI BỒI THƯỜNG NHƯ TRƯỜNG HỢP ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG
ReplyDeleteTrước đây, tác giả đã từng có bài viết với tiêu đề "sa thải sai thì sao?, theo đó tác giả đã phân tích những quy định của Bộ luật Lao động 2012 so với quy định của Bộ luật Lao động trước đây và nhận thấy quy định trong Bộ luật Lao động 2012 về sa thải là chưa thực sự đầy đủ và chính xác, cụ thể là Bộ luật Lao động 2012 đã không quy định hậu quả pháp lý đối với trường hợp người sử dụng lao động áp dụng hình thức xử lý kỷ luật sa thải đối với người lao động. Sau khi bài viết được đăng tải thì cũng có nhiều ý kiến khác nhau của quý vị độc giả về vấn đề này, nhìn chung thì có nhiều độc giả đã đồng tình với quan điểm của tác giả về sự thiếu sót của Bộ luật Lao động 2012 trong vấn đề này. Trong khoảng thời gian chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể thì hầu hết các Tòa án có thẩm quyền vẫn áp dụng tinh thần của Bộ luật Lao động cũ để giải quyết tranh chấp đối với những vụ án tranh chấp hợp đồng lao động về sa thải.
Vào ngày 12 tháng 01 năm 2015, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 05/2015/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết một số nội dung của Bộ luật Lao động và Nghị định số 05/2015/NĐ-CP đã khắc phục được sự thiếu sót về quy định của pháp luật đối với hậu quả pháp lý trong trường hợp sa thải trái pháp luật, cụ thể: Theo quy định tại khoản 3, Điều 33, Nghị định số 05/2015/NĐ-CP quy định "Người sử dụng lao động phải khôi phục quyền và lợi ích của người lao động bị vi phạm do quyết định xử lý kỷ luật lao động hoặc quyết định tạm đình chỉ công việc hoặc quyết định bồi thường thiệt hại của người sử dụng lao động. Trường hợp kỷ luật lao động bằng hình thức sa thải trái pháp luật thì người sử dụng lao động có nghĩa vụ thực hiện các quy định các Khoản 1, 2, 3 và 4 Điều 42 [i] của Bộ luật Lao động." Nghị định 05/2015/NĐ-CP sẽ có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 3 năm 2015, điều đó có nghĩa là kể từ ngày 01 tháng 3 năm 2015 thì khi người sử dụng lao động áp dụng hình thức xử lý kỷ luật lao động sa thải trái pháp luật với người lao động thì người sử dụng lao động phải chịu hậu quả pháp lý như đối với trường hợp "đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật" theo quy định tại Điều 42 Bộ luật Lao động.
NĐ này có áp dụng để đòi bồi thường với những trường hợp bị sa thải trước ngày 01/3/2015 không thưa luật sư ?
DeleteNĐ này có áp dụng để đòi bồi thường với những trường hợp bị sa thải trước ngày 01/3/2015 không?
ReplyDelete