This is an example of a HTML caption with a link.
Showing posts with label Ký sự luật sư. Show all posts
Showing posts with label Ký sự luật sư. Show all posts

Sunday, December 17, 2017

Ủy quyền khởi kiện - hiểu sao cho đúng

Vừa qua, trên Báo pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh vừa đăng 02 bài viết liên quan đến việc người đại diện theo ủy quyền thực hiện việc khởi kiện và ký đơn khởi kiện, cụ thể là bài đăng với tiêu đề "Thay mặt người đang ở Canada khởi kiện được không?” và bài “Người đại diện theo ủy quyền được khởi kiện?”. Trong các bài viết trên thì các chuyên gia luật cũng đã có nhiều ý kiến khác nhau, qua bài viết này tác giả xin chia sẻ những quan điểm của tác giả về vấn đề này cùng Quý độc giả, để quý độc giả có thể hiểu rõ hơn về vấn đề này.

Ủy quyền trong Tố tụng dân sự

Người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện là cá nhân (nguyên đơn) không được ký đơn khởi kiện vì luật đã quy định rất rõ ràng.

Theo quy định tại Điều 189 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 thì:
Điều 189. Hình thức, nội dung đơn khởi kiện
2. Việc làm đơn khởi kiện của cá nhân được thực hiện như sau:
a) Cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự thì có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án. Tại mục tên, địa chỉ nơi cư trú của người khởi kiện trong đơn phải ghi họ tên, địa chỉ nơi cư trú của cá nhân đó; ở phần cuối đơn, cá nhân đó phải ký tên hoặc điểm chỉ;
b) Cá nhân là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì người đại diện hợp pháp của họ có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án. Tại mục tên, địa chỉ nơi cư trú của người khởi kiện trong đơn phải ghi họ tên, địa chỉ nơi cư trú của người đại diện hợp pháp của cá nhân đó; ở phần cuối đơn, người đại diện hợp pháp đó phải ký tên hoặc điểm chỉ;

Người đại diện theo ủy quyền của cơ quan, tổ chức thì được quyền ký đơn khởi kiện.

Theo quy định tại Khoản 3, Điều 189 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, thì: “3. Cơ quan, tổ chức là người khởi kiện thì người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án. Tại mục tên, địa chỉ của người khởi kiện phải ghi tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức và họ, tên, chức vụ của người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó; ở phần cuối đơn, người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức phải ký tên và đóng dấu của cơ quan, tổ chức đó; trường hợp tổ chức khởi kiện là doanh nghiệp thì việc sử dụng con dấu theo quy định của Luật doanh nghiệp.” (Đại diện hợp pháp của tổ chức bao gồm người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo ủy quyền).

Nội dung này, trước đây được Nghị Quyết 05/2012/NQ-HĐTP hướng dẫn rất rõ tại khoản 5, Điều 2, cụ thể như sau: “Trường hợp người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức ủy quyền cho người khác thực hiện việc khởi kiện vụ án thì tại mục “Tên, địa chỉ của người khởi kiện” sau khi ghi tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức, phải ghi họ tên, chức vụ của người đại diện theo ủy quyền của cơ quan, tổ chức đó, văn bản ủy quyền (số, ngày, tháng, năm) và chức danh của người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức ủy quyền. Tại mục “Người khởi kiện” ở cuối đơn khởi kiện cần phải ghi tên của cơ quan, tổ chức, ghi dòng chữ “Người đại diện theo ủy quyền”; người đại diện theo ủy quyền ký tên, ghi họ, tên của người đại diện theo ủy quyền và đóng dấu của cơ quan, tổ chức.”

Ủy quyền trong giao dịch dân sự

Người đại diện theo ủy quyền trong giao dịch dân sự được quyền ký đơn khởi kiện.

Trong 02 bài báo của báo Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh đã đăng không thể hiện được sự khác nhau giữa người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự và người đại diện theo ủy quyền trong giao dịch dân sự vì vậy dẫn đến việc khó hiểu cho người đọc, đồng thời các chuyên gia đã phân tích vẫn chưa nhận định được sự khác biệt về tư cách của người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự và giao dịch dân sự.

Theo quan điểm của tác giả thì người đại diện theo ủy quyền trong giao dịch dân sự được quyền ký đơn khởi kiện, để bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình khi bị xâm phạm trong quá trình thực hiện công việc ủy quyền và người đại diện theo ủy quyền ký đơn, thì họ tham gia tố tụng với tư cách là nguyên đơn trong vụ án dân sự, chứ không phải là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn. Tác giả xin đưa ra một trường hợp cụ thể để Quý độc giả dễ hình dung:

Ông A ủy quyền cho ông B được toàn quyền, quản lý, sử dụng, định đoạt đối với tài sản của mình là Quyền sử dụng đất X, bằng văn bản ủy quyền hợp pháp, sau khi có văn bản ủy quyền hợp pháp thì ông B tiến hành giao dịch với ông C, cụ thể là ông B chuyển nhượng quyền sử dụng đất X cho ông C với giá 300.000.000 đồng, ông B và C thỏa thuận việc thanh toán thành 02 lần, lần 1: 200.000.000 đồng ngay khi ký hợp đồng chuyển nhượng, lần 2 ngay khi việc đăng ký biến động quyền sử dụng đất được hoàn tất theo quy định của pháp luật. Trong quá trình thực hợp đồng thì ông C chỉ thanh toán cho ông B 200.000.000 đồng, đối với  100.000.000 đồng còn lại thì ông C vi phạm nghĩa vụ thanh toán. Như vậy, theo quan điểm của tác giả thì trong trường hợp này ông B được quyền ký đơn khởi kiện để kiện ông C, yêu cầu ông C phải thanh toán số tiền 100.000.000 đồng theo thỏa thuận trong hợp đồng chuyển nhượng và khi tòa thụ lý vụ án thì ông B là nguyên đơn trong vụ án.

Tác giả hoàn toàn đồng ý với quan điểm của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu trong vụ việc được phản ánh trong bài viết “Người đại diện theo ủy quyền được khởi kiện?” Bởi lẽ người đại diện theo ủy quyền đã được quyền chiếm hữu đối với tài sản đó thì được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền sở hữu của mình khi có hành vi xâm phạm, cụ thể được quy định tại Điều 189 Bộ luật Dân sự 2015 “Điều 185. Bảo vệ việc chiếm hữu
Trường hợp việc chiếm hữu bị người khác xâm phạm thì người chiếm hữu có quyền yêu cầu người có hành vi xâm phạm phải chấm dứt hành vi, khôi phục tình trạng ban đầu, trả lại tài sản và bồi thường thiệt hại hoặc yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc người đó chấm dứt hành vi, khôi phục tình trạng ban đầu, trả lại tài sản và bồi thường thiệt hại.

Qua bài viết này tác giả hy vọng Quý độc giả có thể hiểu rõ hơn quy định liên quan đến việc ủy quyền và xác định được lúc nào thì người đại diện theo ủy quyền được quyền khởi kiện, lúc nào thì người đại diện theo ủy quyền không được quyền khởi kiện.
Quyết Quyền

Sunday, May 7, 2017

Chuyện về cái cổng rào - Phường 7, quận Bình Thạnh

Vào ngày 04 tháng 05 năm 2017, tôi và đồng nghiệp là Luật sư Giang Văn Quyết đã đồng hành cùng chị Hồ Thị Hồng Loan để tham gia phiên toà về việc Khiếu nại quyết định hành chính đối với Quyết định của Chủ tịch UBND Phường 7, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh, Quyết định liên quan đến cái cổng rào đã tốn khá nhiều giấy mực của giới báo chí và tốn rất nhiều Quyết định của chủ tịch UBND Phường 7, quận Bình Thạnh, cũng như các cơ quan khác có liên quan. Mặc dù phiên Toà sơ thẩm đang tạm kết thúc và đang chờ nghị án để tuyên án vào ngày 11/5/2017, tuy nhiên những cảm xúc và nhiều điều thú vị liên quan đến phiên toà và cánh cổng rào khiến tôi muốn chia sẻ cùng Quý độc giả.

Để Quý độc giả có thể hình dung được toàn bộ sự việc và đánh giá sự việc một cách khách quan, tôi xin tóm tắt diễn biến sự việc liên quan đến cánh cổng rào nêu trên và vụ kiện như sau:

Hồ Thị Hồng Loan là chủ sở hữu của 02 căn nhà số 5/99/19 và 5/99/19B Nơ Trang Long, Phường 7, quận Bình Thạnh, hai căn nhà nêu trên ở cuối hẻm cụt, gần khu vực bệnh viện Ung Bướu Thành phố Hồ Chí Minh. Vào thời điểm năm 2007 do tình hình an ninh của khu vực có nhiều bất ổn, ở khu vực hẻm có nhiều người lạ mặt thường xuyên xuất hiện, gia đình bà Loan có 02 con nhỏ và cha già gần 90 tuổi, do tính chất công việc phải thường xuyên vắng nhà nên bà Hồ Thị Hồng Loan có làm đơn xin xây dựng cổng rào trên phần đất hẻm ở phía trước căn nhà số 5/99/19B, đơn xin xây dựng cổng rào được toàn thể hộ dân trong khu vực ký tên đồng ý và được Phường 7 xem xét trình cho quận nhưng thời điểm này quận không đồng ý cho  gia đình bà Loan xây dựng.
Đơn xây cổng rào
02 Đơn xin phép xây cổng rào của bà Loan
Ngày 29-12-2008 bà Loan tiếp tục có đơn xin xây dựng tạm cổng rào trên phần đất công nêu trên, bà Loan cam kết sẽ tự nguyện tháo dỡ khi Nhà nước có nhu cầu quy hoạch hay mở rộng hẻm và được bà phó chủ tịch Phường 7 thời điểm đó là bà Nguyễn Thị Lệ xác nhận đồng ý cho bà Loan xây dựng nhằm đảm bảo an ninh cho gia đình và chỉ được sử dụng chứ không được hợp thức hoá. Sau khi nhận được sự chấp thuận của Phường 7 thì hộ bà Hồng Loan đã tiến hành xây dựng cổng rào có hiện trang như bây giờ.
Hiện trạng cổng rào 
Vào năm 2012 hộ bà Phạm Thị Thu Hà là hàng xóm của bà Hồng Loan có hành vi xây dựng trái phép nên bà Loan có làm đơn gửi cho các cơ quan chức năng yêu cầu xử lý và kết quả là phần xây dựng trái phép của bà Hà đã bị cơ quan chức năng tháo dỡ theo quy định của pháp luật.
phần xây dựng trái phép của bà Hà bị đập bỏ năm 2012
Cay cú trước việc một phần diện tích xây dựng của gia đình bị đập bỏ do đơn thư của bà Hồng Loan nên gia đình của bà Hà đã hướng đến việc yêu cầu cơ quan chức năng tháo dỡ cánh cổng rào của gia đình bà Loan. Để thực hiện điều này gia đình bà Hà cũng có nhiều đơn thư phản ảnh đến quận Bình Thạnh về việc UBND Phường 7 chấp thuận cho hộ bà Loan tiến hành xây dựng cổng rào trên đất công là không đúng thẩm quyền của Phường 7, hệ quả của việc này là UBND quận Bình Thạnh đã có công văn 1720/UBND-TTXD yêu cầu UBND Phường 7 thu hồi việc chấp thuận cho Loan dựng cổng rào, thực hiện chỉ đạo này ngày 11/9/2012 UBND Phường 7 đã ban hành công văn số 175/UBND để thu hồi văn bản xác nhận ngày 06/01/2009, đồng thời đề nghị bà Loan tự tháo bỏ phần cổng rào trả lại hiện trạng ban đầu, tuy nhiên bà Loan không đồng ý.

Công văn 175/UBND ban hành nhưng chỉ có giá trị thu hồi lại việc chấp thuận cho bà Loan xây dựng cổng rào, còn đối với việc tháo dỡ cổng rào thì không thể thực hiện được, vì vậy UBND Phường đã xin ý kiến của cơ quan hữu quan để tìm hướng giải quyết và thế là các văn bản của UBND Thành phố Hồ Chí Minh, Sở tư pháp, Sở xây dựng được ban hành, mặc dù các văn bản có một số điểm khác biệt nhưng chung quy lại thì vẫn thống nhất nội dung chính để định hướng cho việc xử lý cánh cổng rào của bà Loan là:

- Xác định việc bà Loan xây dựng cổng rào không phải là hành vi xây dựng không phép, không vi phạm quy định của luật xây dựng, không có hành vi vi phạm hành chính nên không thể giải quyết theo trình tự xử phạt vi phạm hành chính.

- Đối với việc UBND Phường 7 đã thuận cho bà Loan xây dựng cổng rào thì thuộc trách nhiệm của cơ quan nhà nước, những cá nhân liên quan phải chịu trách nhiệm với tổ chức, trong trường hợp phải tháo dỡ cổng rào thì UBND Phường 7 phải có trách nhiệm bồi thường cho hộ bà Loan.

- Muốn buộc bà Loan tháo dỡ cổng rào thì phải thông qua đơn thư khiếu nại của những cá nhân, tổ chức có liên quan bị ảnh hưởng, đồng thời việc giải quyết khiếu nại phải thực hiện theo đúng trình tự luật định.

Công văn 1592 của sở tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh

Không rõ gia đình bà Hà có được thông tin của các công văn nêu trên từ đâu hay là do cá nhân nào đó hướng dẫn, ngày 06/10/2014 bà Hà có đơn khiếu nại gửi đến chủ tịch UBND Phường 7 để khiếu nại việc UBND Phường 7 đã chấp thuận cho bà Hồ Thị Hồng Loan xây dựng cổng rào trên phần đất công cộng làm ảnh hưởng đến quyền lợi các hộ xung quan khu vực và gia đình bà Hà, đồng thời yêu cầu chủ tịch UBND Phường 7 trả lời cho bà Hà bằng quyết định giải quyết khiếu nại, ngoài ra đơn không còn yêu cầu nào khác.
Đon khiếu nại của bà Hà
Chủ tịch UBND Phường 7, ngay sau khi nhận được đơn của bà Hà đã thụ lý giải quyết và ban hành quyết định giải quyết khiếu nại  số 117/QĐ-UBND ngày 5 tháng 8 năm 2014, nội dung chính của Quyết định là chấp nhận nội dung khiếu nại của bà Hà, đồng thời buộc bà Hồ Thị Hồng Loan có trách nhiệm tháo dỡ phần cổng rào trả lại hiện trạng ban đầu là hẻm cung, nếu bà Loan không chấp hành thì sẽ bị tổ chức cưỡng chế theo quy định của pháp luật. Ngoài ra trong Quyết định còn có thêm nội dung xác định việc có cổng rào trên đất công khiến mỗi lần gia đình bà Loan chạy ra, vào gây tiếng ồn và xả khói bụi làm ảnh hưởng đến sức khoẻ gia đình bà Hà.





Bà Loan không đồng tình với Quyết định 117 và không thực hiện việc tự tháo dỡ, nên UBND Phường 7 đã ban hành quyết định cưỡng chế, bà Loan ngay sau đó đã khởi kiện ra Toà, trong quá trình giải quyết vụ án thì người bị kiện đã thu hồi quyết định cưỡng chế, người khởi kiện rút đơn khởi kiện nên vụ án đã được đình chỉ.

Mặc dù thu hồi quyết định cưỡng chế nhưng Quyết định số 117 thì chủ tịch UBND Phường 7 vẫn không thu hồi. Bà Loan xác định Quyết định 117 làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của bà nên đã khởi kiện tại Toà án nhân dân quận Bình Thạnh trong thời hiệu luật cho phép. Vụ án đang trong quá trình giải quyết thì chủ tịch UBND Phường 7 ban hành Quyết định số 316/QĐ-UBND để điều chỉnh, bổ sung Quyết định số 117, mặc dù đã có những điều chỉnh nhưng Quyết định số 316 vẫn còn nội dung làm ảnh hưởng đến quyền lợi của mình nên bà Loan đã có đơn khởi kiện bổ sung yêu cầu Toà án huỷ quyết định 316, ngoài ra còn có yêu cầu bồi thường về vật chất và tinh thần.

Ngày 04/5/2017 Phiên toà sơ thẩm đã được diễn ra sau 01 lần bị hoãn do đơn yêu cầu của người đại diện theo uỷ quyền của người bị kiện.

Xác định vụ án không nặng về giá trị vật chất mà nặng về giá trị danh dự, uy tính của gia đình tôi cùng đồng nghiệp và chị Hồng Loan đã cùng nhau soi xét toàn bộ hồ sơ để chỉ ra những điểm sai của Quyết định 117 và 316.
Sau quá trình thảo luận chúng tôi đã chỉ ra những sai sót sau:

Quy trình thụ lý đơn khiếu nại.

Xét đơn khiếu nại ngày 06 tháng 10 năm 2014 của bà Hà.

Về yêu cầu giải quyết khiếu nại
Đơn khiếu nại của bà Hà mặc dù tiêu đề thể hiện là Đơn khiếu nại nhưng nội dung đơn lại không nêu YÊU CẦU GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI là vi phạm quy định tại Điều 8 Luật khiếu nại 2011, yêu cầu giải quyết khiếu nại là vấn đề cốt lõi của đơn khiếu nại, không có yêu cầu thì không thể có cơ sở để thụ lý giải quyết tuy nhiên chủ tịch Phường 7 vẫn thụ lý giải quyết là trái quy định của pháp luật. Ngoài ra tại Phiên Toà bà Hà đã khẳng định với hội đồng xét xử là đơn khiếu nại không phải do bà soạn thảo mà do con gái của bà soạn rồi đưa bà ký, bà không nắm được nội dung của đơn khiếu nại của bà là khiếu nại cái gì, bà chỉ biết ý chí của bà là khiếu nại để yêu cầu tháo dỡ cổng rào của nhà bà Loan.

Về nội dung khiếu nại:
Đơn khiếu nại của bà Hà thể hiện nội dung khiếu nại là khiếu nại hành vi hành chính của UBND Phường 7 đã chấp thuận cho bà Loan xây dựng cổng rào trên đất công cộng. Xét nội dung khiếu nại này của bà Hà là hoàn toàn không có cơ sở pháp lý bởi lẽ hành vi hành chính của UBND Phường 7 đối với việc chấp thuận cho bà Loan xây dựng cổng rào đã được UBND Phường 7 thu hồi theo công văn số 175/UBND ngày 11/92012(đã viện dẫn ở phần tóm tắt nội dung) vì vậy tại thời điểm bà Hà khiếu nại thì hành vi hành chính đã không còn tồn tại nên không thể thụ lý để giải quyết.

Xét thời hiệu khiếu nại.

Thời điểm bà Hà khiếu nại là ngày 10/6/2014, thời điểm bà Loan được UBND Phường 7 chấp thuận xây dựng cổng rào và bà Loan dựng cổng rào là tháng 01/2009, bà Hà đã biết sự việc này từ năm 2009 nhưng đến 2014 (sau 05 năm) mới có đơn khiếu nại trong khi bà Hà không hề gặp những sự kiện bất khả kháng hay sự kiện khách quan để kéo dài thời hiệu khiếu nại. Theo quy định tại Điều 9 luật khiếu nại 2011 thì thời hiệu khiếu nại lần đầu là 90 ngày kể từ ngày biết được quyết định, hành vi hành chính, chiếu theo quy định nêu trên thì thời hiệu khiếu nại theo đơn khiếu nại của bà Hà đã hết, vì vậy việc Chủ tịch UBND Phường 7 thụ lý đơn là vi phạm quy định tại Khoản 6, Điều 11, Luật khiếu nại 2011.

Xét quy trình giải quyết khiếu nại.

Về quy trình xác minh
Quyết định 117 có thể hiện việc người giải quyết khiếu nại có thành lập tổ xác minh để xác minh nội dung khiếu nại nhưng việc xác minh lại không thực hiện đúng thủ tục và không chính xác, cụ thể là không mời, triệu tập người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong quá trình xác minh, nội dung khiếu nại của bà Hà là khiếu nại hành vi chấp thuận của UBND Phường cho bà Loan xây dựng cổng rào nhưng lại đi xác minh cổng rào là không ăn nhập với nội dung khiếu nại, thậm chí đi xác minh cổng rào cũng không phù hợp với thực tế, cổng rào thực tế có 02 cánh nhưng kết quả xác minh chỉ thể hiện cổng rào 01 cánh!!!

Về tổ chức đối thoại
Quyết định số 117 có thể hiện trong quá trình giải quyết khiếu nại người khiếu nại có tổ chức đối thoại nhưng không đưa ra được căn cứ để đối thoại vì theo quy định tại Điều 30 Luật khiếu nại thì trong quá trinh giải quyết khiếu nại lần đầu chỉ tổ chức đối thoại khi kết quả xác minh và nội dung khiếu nại có sự khác nhau, tuy nhiên trong quá trình giải quyết khiếu nại của bà Hà thì không thể hiện sự khác nhau giữa nội dung khiếu nại và kết quả xác minh, việc chủ tịch UBND Phường 7 tổ chức đối thoại thể hiện sự tuỳ tiện trong việc áp dụng pháp luật vào quy trình giải quyết khiếu nại.

Xét về nội dung của Quyết định số 117.

Quyết định số 117 không thể hiện yêu cầu giải quyết khiếu nại của người khiếu nại là vi phạm quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 22, thông tư số 07/2013/TT-TTCP.

Tại mục II của Quyết định 117 thể hiện kết quả xác minh nội dung khiếu nại nhưng bên trong lại không thể hiện rõ kết quả xác minh nội dung khiếu nại liên quan đến nội dung khiếu nại của nguời khiếu nại mà lại nêu nội dung vụ việc và kết luận nội dung khiếu nại có cơ sở là không đúng với mục kết quả xác minh, bởi kết quả xác minh phải là những nội dung mà tổ xác minh đã xác minh được trong quá trình giải quyết khiếu nại nhằm giúp người giải quyết khiếu nại đưa ra kết luận khiếu nại phù hợp chứ không phải là phần kết luận khiếu nại.

Tại mục III của Quyết định 117 thể hiện kết quả đối thoại nhưng lại thể hiện nội dung về ngày giờ tổ chức đối thoại và thành phần tham gia đối thoại là hoàn toàn sai, bởi lẽ kết quả đối thoại chính là những nội dung được làm rõ tại buổi đối thoại, làm cơ sở cho việc đưa ra kết luận giải quyết khiếu nại chứ không phải ghi lại ngày giờ và thành phần tham gia đối thoại.

Tại mục IV của Quyết định thể hiện Kết luận giải quyết khiếu nại tuy nhiên lại không đưa ra căn cứ pháp lý là trái với quy định được hướng dẫn của biểu mẫu số 15, ban hành kèm theo thông tư số 07/2013/TT-TTCP.

Điều 1 của Quyết định 117 không thể hiện việc tiếp tục hay chấm dứt hành vi hành chính đối với hành vi hành chính bị khiếu nại mà lại đi công nhận nội dung khiếu nại là trái với hướng dẫn của biễu mẫu số 15, ban hành kèm theo thông tư số 07/2013/TT-TTCP.

Điều 2 của Quyết định 117 buộc bà Loan phải tháo dỡ cổng rào … là vượt quá nội dung yêu cầu khiếu nại của người khiếu nại.

Điều 3 của Quyết định 117 hướng dẫn cho bà Hà và bà Hồng Loan khiếu nại đến Uỷ ban nhân dân quận Bình Thạnh là sai, bởi lẽ theo quy định tại Điều 18 Luật Khiếu nại thì thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần 2 đối với Quyết định 117 là của Chủ tịch UBND quận Bình Thạnh, chứ không phải là của UBND quận Bình Thạnh.


Xét Quyết định 316.

Quyết định 316 sửa đổi, điều chỉnh Quyết định 117 về nội dung Quyết định và kết quả xác minh, đây cũng là 01 Quyết định trái pháp luật vì bản thân quy trình giải quyết khiếu nại 117 trái luật nên Quyết định 316 không thể khắc phục được những sai sót trước đó.

Những nội dung nêu trên đã được chúng tôi triển khai và xây dựng bảng danh sách câu hỏi để hỏi người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện tại phiên Toà và bản luận cứ cho người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của người bị kiện, tuy nhiên tại phiên Toà sơ thẩm thì người đại diện theo uỷ quyền của người bị kiện chỉ trả lời một vài câu hỏi ban đầu còn các câu hỏi tiếp theo được đặt ra thì không trả lời, tuy nhiên những câu hỏi vẫn được đặt ra và được thư ký phiên toà thể hiện đầy đủ vào biên bản phiên toà.




Thêm chú thích
Một số câu hỏi của người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của người bị kiện chuẩn bị sẵn

Ngoài ra nội dung đáng lưu ý là tại phiên toà Người khởi kiện vẫn khẳng định tại Toà là nếu các cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản,quyết định phù hợp với quy định của pháp luật thì xin TỰ NGUYỆN tháo dỡ cổng rào.

Tại phần tranh luận, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện đã nêu bật những sai sót của Quyết định 117 và 316 để thuyết phục Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện, phía người bị kiện và người bảo vệ quyền lợi ích của người bị kiện chỉ khẳng định Quyết định 117 và 316 đúng luật nhưng lại không hề phân tích và viện dẫn các căn cứ để thuyết phục hội đồng xét xử.


Kết thúc phần tranh luận, Hội đồng xét xử đã nghị án trong thời gian 45 phút và đã ra Quyết định nghị án kéo dài vì xét thấy thông qua diễn biến phiên toà, nội dung vụ án có nhiều tình tiết phức tạp cần phải cân nhắc, xem xét một cách kỹ lưỡng, mặc dù trước khi vào nghị án thì vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh phát biểu về nội dung vụ án và đề nghị với hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện với lý do là phần đất bà Hồ Thị Hồng Loan xây cổng rào là thuộc về phần đất công cộng mà không xem xét đánh giá gì về nội dung khiếu nại của bà Hà và quy trình giải quyết khiếu nại của người bị kiện cũng như những vấn đề mà phía người khởi kiện đã nêu lên tại phiên Toà. Tôi xác định việc vị đại diện Viện kiểm sát nhận định về việc bà Loan xây dựng trên đất công trong phần phát biểu quan điểm của mình là không chính xác, bởi lẽ phạm vi giải quyết vụ án là xác định tính hợp pháp của 02 Quyết định hành chính bị khiếu kiện và vấn đề bồi thường thiệt hại vì vậy cần tập trung đánh giá vào 02 Quyết định nêu trên chứ không phải là xét việc cổng rào xây dựng là đúng hay sai, đây là một nội dung khác không liên quan trong vụ án.

Hiện tại vẫn đang trong thời gian Hội đồng xét xử nghị án, chúng tôi sẽ cập nhật kết quả giải quyết vụ án ngay sau khi có kết quả chính thức, kính mong quý vị độc giả quan tâm theo dõi.

Một số điểm đặc biệt tại phiên toà

Dù chỉ là một phiên toà hành chính nhỏ, tuy nhiên rất nhiều người dân phường 7 và một số người quan tâm đến tham dự phiên toà để ủng hộ người khởi kiện với số lượng rất đông, khiến bảo vệ Toà án phải kéo thêm 03 băng ghế dài để đảm bảo cho người xem phiên Toà. 
Phía người bị kiện có mời luật sư để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình, điều mà chúng ta khó để nhìn thấy trong các phiên toà xử án hành chính, đặc biệt tại phiên Toà người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện lại đứng dậy để trả lời thay câu hỏi cho phía người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan - bà Hà (tuy nhiên ngay lập tức đã chịu sự phản đối của phía người khởi kiện và chủ toạ phiên Toà).
Người đại diện theo uỷ quyền của người bị kiện là nữ phó chủ tịch Phường, có trình độ cử nhân luật nhưng không trả lời câu hỏi của người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người khởi kiện và những người tham gia tố tụng khác và có thái độ không chuẩn mực tại phiên toà trước sự chứng kiến của cơ quan báo chí và nhiều người dân phường 7, thậm chí khi hỏi phần bút tích của bà ấy khi bà ấy còn là cán bộ địa chính, tham mưu cho lãnh đạo chấp thuận cho bà Loan dựng cổng rào thì bà ấy cũng không nhận.
Vị đại diện viện kiểm sát khi phát biểu quan điểm của mình lại sử dụng văn bản chuẩn bị sẵn và có dấu giáp lai trong nội dung bài phát biểu trước sự ngỡ ngàng của nhiều người tham dự phiên Toà, để có người phải thốt lên "cầm đọc vậy thì án bỏ túi rồi chứ còn gì nữa".
Trân trọng.
Quyết Quyền

Thursday, March 30, 2017

Tâm sự nghề Luật sư

Luật sư có thể trải qua ngàn vụ án, thắng thua trong tích tắc, còn thân chủ- có khi cả đời mới một lần đụng chuyện và nổi hay chìm chỉ trong một bản án.
Đó là nhận định của luật sư Nguyễn Thành Công (Đoàn Luật sư TP HCM) trong thực trạng nhiều luật sư sử dụng mạng xã hội gây áp lực đến cơ quan công quyền, tạo sự hả hê cho người nhà thân chủ. Báo Người Lao Động xin đăng ý kiến của luật sư về vấn đề này.
Nếu hỏi chọn bảo vệ đối tượng nào thì câu trả lời của tôi là việc bảo vệ thân chủ là nghĩa vụ tối cao.
Trong học và hành luật ai cũng nắm nguyên tắc pháp chế XHCN. Khái niệm và định nghĩa thì dài dòng nhưng nôm na là phải bảo vệ cái to nhất là pháp luật rồi mới đến các chủ thể, nội dung khác. Với luật sư thì buộc họ phải đặt thân chủ mình xuống hàng thứ 2.
Đừng nên nói rằng chỉ có nước ta mới có cái nguyên tắc ấy. Thật ra hệ thống pháp luật là công cụ để quản lý xã hội của Nhà nước vì vậy hầu như các nước đều giương cao nguyên tắc này, tức ý thức chấp hành pháp luật là tối cao. Tuy nhiên, phân tầng cho từng loại xã hội thì nguyên tắc này được ứng dụng và sử dụng khác nhau. Cũng từ đó nhiều nước đặt phần thưởng cho việc phát hiện ra các kẽ hở của hệ thống luật pháp nước đó đối với mọi đối tượng. Và luật sư rất thường được …..lãnh thưởng.
Phiên tòa có nhiều luật sư tham gia bào chữa
Luật sư suốt ngày chỉ xoáy xoay vào các quy định pháp luật nhằm tìm ra chỗ mà chen vào để bảo vệ tốt nhất cho thân chủ. Nhưng phải nhớ đó là sự lách luật chứ không phải làm trái pháp luật rồi che giấu để không bị phát hiện. Xe gắn máy thấy vạch rời mà chuyển làn sang làn xe hơi để vượt qua phương tiện khác hay vật cản. Điều đó nguy hiểm vì lưu thông không đúng làn đường nhưng pháp luật cho phép khi việc ấy chỉ tạm thời chứ không được sử dụng làn ô tô cho xe máy của mình. Đó là cái lách trong thực tế cuộc sống.
Lách luật cũng như thế. Tuy nhiên, có nhiều người lại nhầm lẫn giữa lách luật với làm trái pháp luật mà chưa bị phát hiện. Luật sư càng phải tìm ra nhiều kẽ hở ấy để làm cơ sở mà bảo vệ cho thân chủ, tìm ra được càng nhiều thì càng tăng độ giỏi của mình. Bởi để hình thành nên một quy định, một chế định, quy phạm hay luật, bộ luật thì cả rừng các nhà chuyên môn vào cuộc nhưng quy định đặt ra vẫn không thể bịt kín hết mọi chỗ hở. Vậy người tìm ra được kẽ hở ấy phải là người giỏi. Nhà nước cần khuyến khích cho cái sự tìm ra kẽ hở ấy mà còn tìm cách trám lại cho hoàn chỉnh. Vì thế cả vấn đề phần thưởng cũng là sáng kiến hay và nên làm.
Khi thực hiện nghĩa vụ bảo vệ cho thân chủ, tôi phải tìm đủ mọi phương cách trong đó khai thác mạnh hệ thống pháp luật giăng mắc kia để tạo một điểm tựa cho sự phản bác, cáo buộc.
Đó là nói về vấn đề bảo vệ cái nào và điều gì. Thế có phải vì bảo vệ cho thân chủ mà ta xem nhẹ pháp luật hay dìm các đại diện của cơ quan tố tụng hay không? Chắc chắn là không.
Muốn ta lên cao thì không phải bằng cách dìm người ta xuống thấp. Các trận tranh tài thể thao sau khi kết thúc thì cả người thắng lẫn kẻ thua đều khen nhau. Người thua công nhận vì đối thủ quá hay nên ta mới thua, chứ thua một kẻ xoàng thì ta còn tệ hơn kẻ ấy. Vì vậy càng nâng đối thủ thì vai của ta càng cao. Bạn thắng thì khen kẻ thua, bởi kẻ thua quá giỏi tức ta thắng được người giỏi mà. Như thế nguyên tắc nâng cao đối thủ luôn đúng, tất nhiên đúng trong trường hợp cùng chính trực, dưới thắt lưng thì không kể vào đây.
Trong trận chiến pháp lý thì có khác một chút, bởi ở tính phức tạp và quá nhiều các quy định mà không phải ai cũng đã đọc hoặc nghiền ngẫm tới. Có thể chê bai người có vị trí, thẩm quyền ấy nhưng không trang bị cho mình đủ lượng kiến thức để hành xử đúng hay quá cố chấp không dung nạp luận lý đúng. Tuy nhiên việc tung hô thân chủ của mình là người đã thực hiện hành vi tội phạm và đối kháng với các cơ quan tố tụng thì không ổn lẫn không được. Dù thấy không ít những điều trái ngang nhưng tôi có niềm tin rằng đó không phải là số nhiều.
Nghề luật sư bắt buộc loại trừ các câu hỏi với thân chủ “ông/bà/anh/chị…. có thực hiện hành vi phạm tội đó không? Có đâm/chém/giết.. người đó không….” mà có hệ thống các câu hỏi khác “nghệ thuật” hơn để nắm bắt sự thật. Vụ án oan sai là không ít nhưng không thể nói là nhiều. Nhiều ở đây là tôi tính ở tỷ lệ vài phần trăm. Nhưng nhân nó thành điển hình cho cả một nền tư pháp thì không được.
Với tôi, khi ra tòa tôi luôn thấy mình đang thực hiện một trọng trách và luôn ưu tư. Trọng trách bởi số phận pháp lý của thân chủ có được trắng án hay gia giảm chút nào? Còn ưu tư thì luôn tự hỏi mình làm gì? Có làm đúng không? Rồi như thế nào là đúng trong hành nghề luật sư?
Án dân sự thì có bên thắng nên phải có bên thua và người thua không hẳn họ không có lý mà còn vì nhiều lý do khác nhưng cái thắng ắt không được đạp qua đạo đức.
Án hình sự, cái sự thắng thua không rõ như phi hình sự nhưng đó là sự được hoặc được ít, không được. Chọn cho mình kết quả cuối cùng nào luôn là sự suy tính lớn, rất lớn của nghề nghiệp. Được vạ thì má đã sưng, trạng chết chúa cũng băng hà… là những dằn vặt lớn khi tự hỏi lợi ích mình đang mang lại cho thân chủ là gì. Dung hòa giải pháp và kết quả tốt nhất luôn được đặt ra chứ không phải sự thắng thua. Thắng nhưng hệ lụy thì vô cùng là không thể chấp nhận.
Như thế cái sự tiến lùi trong từng bước đi được cân nhắc thật cẩn thận. Chẳng để thỏa mãn mình thậm chí còn nén mình lại để thân chủ đạt được mục đích, có được kết quả tốt thì luật sư cũng sẵn sàng.
Luật sư có thể trải qua ngàn vụ án, ở đó thắng thua, được hơn chỉ trong tích tắc, còn thân chủ - có khi cả đời họ mới một lần đụng chuyện và cuộc đời nổi hay chìm chỉ trong một bản án ấy. Vì vậy không thể vô cảm, bất cần hay chỉ nhằm thỏa mãn bản thân mà thân chủ phải nhận lãnh một kết cục tồi tệ.
Luật sư Nguyễn Thành Công (nguồn nld.com.vn)


Thursday, June 18, 2015

Cơ quan thi hành án dân sự không hiểu Luật thi hành án dân sự?

Câu chuyện mà tác giả muốn chia sẻ với Quý độc giả là một câu chuyện có thật liên quan đến việc Tòa án và cơ quan thi hành án dân sự lúng túng khi áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong khi những quy định của pháp luật liên quan đã quy định rõ ràng.
Bài viết liên quan:
>>> Công lý đã được thực thi
Sự việc bắt đầu từ tranh chấp hợp đồng vay tiền của ông Hà Ngọc S đối với bà Hồ Thị M, cụ thể bà M có cho ông S vay số tiền 50.000.000 đồng với thời hạn 30 ngày nhưng khi hết thời hạn vay ông S không trả cho bà M, vì vậy bà M đã khởi kiện ông S ra Tòa án nhân dân thành phố V để yêu cầu ông S trả tiền theo quy định của pháp luật. Để đảm bảo cho việc thi hành án, cùng với việc làm đơn khởi kiện thì bà S đã làm đơn yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời với yêu cầu cụ thể là yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp "Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ" theo quy định tại khoản 11, Điều 102 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Sau khi nhận hồ sơ khởi kiện cũng như đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của bà M, thì Tòa án nhân dân thành phố V đã thông báo cho bà M thực hiện thủ tục nộp tiền tạm ứng án phí và tiền bảo đảm để áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định. (Trong vụ án này tác giả là người nhận đại diện theo ủy quyền của bà M để tham gia tố tụng trong suốt quá trình giải quyết vụ án)

Ngày 15 tháng 6 năm 2015, Tòa án nhân dân thành phố V đã có Quyết định số 885/QĐBPKCTA để phong tỏa tài sản là quyền sử dụng đất của ông S, ngay sau khi ban hành Tòa án đã chuyển Quyết định sang cho Chi cục thi hành án dân sự thành phố V để tiến hành thi hành án theo quy định của pháp luật. Sự việc sẽ không có gì đáng nói nếu Chi cục thi hành án dân sự áp dụng các quy định của Luật thi hành án dân sự 2008 để ra Quyết định thi hành án dân sự theo quy định. Tuy nhiên, chi cục thi hành án dân sự thành phố V không ra Quyết định thi hành án mà ngay trong ngày 16/6/2015 chi cục thi hành án đã có công văn số 388/CCTHADS-GT để yêu cầu Tòa án giải thích Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án.

Trong công văn yêu cầu Tòa án giải thích thì chi cục thi hành án lý luận: Thủ tục thi hành án dân sự về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy định tại điểm d khoản 1, Điều 130 Luật thi hành án dân sự 2008, có quy định về việc "Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ" nhưng không nêu bằng biện pháp cụ thể nào nên chi cục thi hành án dân sự thành phố V không thể ra Quyết định thi hành án. Căn cứ điểm d, khoản 1, Điều 23 Luật thi hành án dân sự 2008, chi cục thi hành án dân sự thành phố V yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố V có văn bản giải thích việc "phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ" là bằng biện pháp nào để chi cục thi hành án dân sự thành phố V làm căn cứ tổ chức thực hiện.
Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ
Công văn 388 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố V

Sau khi nhận được công văn yêu cầu giải thích của thi hành án, Tòa án nhân dân thành phố V đã mời tác giả đến để làm việc. Tác giả thật bất ngờ khi xem công văn 388 của chi cục thi hành án thành phố V. Qua trao đổi với Phó Chánh án của Tòa thành phố V thì tác giả cũng được biết đây là lần đầu tiên ở Tòa thành phố V áp dụng biện pháp này nên cũng lúng túng trước công văn của cơ quan thi hành án. Cầm trên tay cuốn luật thi hành án dân sự 2008, Phó Chánh án Tòa V trao đổi và yêu cầu tác giả chọn biện pháp cụ thể theo nội dung công văn 388 của cơ quan thi hành án. 

Tác giả đã phân tích quy định tại điểm d khoản 1, Điều 30 Luật thi hành án dân sự, điều luật quy định cụ thể "Biện pháp bảo đảm quy định tại các điều 66, 67, 68 và 69 của Luật này để bảo đảm thi hành quyết định về cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp; cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp; phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác; phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ; phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ;"

Điều đó chứng tỏ để áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là "Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ" thì luật quy định cơ quan thi hành án được quyền áp dụng các biện pháp Phong tỏa tài khoản;Tạm giữ tài sản, giấy tờ;Tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng về tài sản;Việc áp dụng biện pháp cụ thể nào là tùy vào loại tài sản bị áp dụng theo Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án. 

Theo quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 885 của Tòa thì tài sản yêu cầu phong tỏa là Quyền sử đất như vậy rõ ràng biện pháp để áp dụng phải là Tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng về tài sản, đó là điều mà chi cục thi hành án dân sự cần phải hiểu để áp dụng chứ không cần phải có sự giải thích của Tòa án hay là yêu cầu của đương sự thì cơ quan thi hành án mới có quyền thực hiện. Tuy nhiên, không rõ vì sợ trách nhiệm hay là không hiểu mà chi cục thi hành án dân sự thành phố V đã có công văn yêu cầu giải thích như trên?

Qua một lúc làm việc tác giả đã có văn bản yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp cụ thể là Tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng về tài sản để Tòa án có cơ sở làm công văn gửi cho cơ quan thi hành án để cơ quan thi hành án sớm ra Quyết định thi hành án và cũng giúp Phó Chánh án Tòa V giải tỏa những căng thẳng của mình.

Sự việc không quá phải là phức tạp, giá trị tranh chấp trong vụ án không phải là lớn, tuy nhiên qua sự việc đó cũng đã giúp tác giả có thêm kinh nghiệm trong quá trình hành nghề của mình. Bên cạnh đó nhờ sự việc này mà tác giả phát hiện một lỗ hổng trong quy định của Luật Thi hành án dân sự 2008 (kể cả luật đã được sửa đổi bổ sung năm 2014 và hiệu lực từ ngày 01/7/2015) cụ thể như sau:

Theo quy định tại Điều 69 Luật Thi hành án dân sự 2008 thì “trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày ra quyết định, Chấp hành viên thực hiện việc kê biên tài sản hoặc chấm dứt việc tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản” mà không quy định về thời hạn cụ thể đối với trường hợp áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, như vậy nếu áp dụng theo đúng quy định tại Điều 130 và Điều 69 luật thi hành án dân sự thì thời hạn để áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với biện pháp này chỉ là 15 ngày? Điều đó là không phù hợp với thời hạn chuẩn bị xét xử của Bộ luật Tố tụng Dân sự và không bảo vệ quyền lợi cho người yêu cầu trong vụ án. Thiết nghĩ các cơ quan có thẩm quyền nên sớm có văn bản hướng dẫn hoặc có tờ trình để sửa đổi, bổ sung quy định nêu trên để việc áp dụng pháp luật được thống nhất.
Quyết Quyền

Sunday, April 12, 2015

Website luật hữu ích cho mọi người

trang web luật hữu ích
Internet Việt Nam được hình thành và phát triển từ năm 1997, từ đó đến nay, Việt Nam luôn được thế giới đánh giá là một trong những quốc gia có số người sử dụng internet tăng nhanh nhất hằng năm, theo một thống kê chưa đầy đủ thì hiện nay có gần 40.000.000 người sử dụng internet tại Việt Nam, Việt Nam nằm trong top 20 quốc gia có lượng người dùng internet nhiều nhất thế giới. Với sự phát triển vượt bậc của internet thì việc lưu trữ, truyền tải các văn bản quy phạm pháp luật cũng đã được thay đổi từ việc in sách, đóng cuốn từng tập văn bản dày cộm chuyển sang lưu trữ, truyền tải thông qua các trang mạng điện tử. Việc tìm hiểu các quy định của pháp luật của mọi người cũng thay đổi từ cách tìm hiểu các quy định của pháp luật tại các thư viện, nhà sách thì bây giờ có thể dễ dàng tìm hiểu thông qua internet. Trong phạm vi bài viết này tác giả xin chia sẻ với Quý độc giả một số website luật hữu ích cho mọi người.

Monday, November 17, 2014

Công lý đã được thực thi

luật pháp thực thi
Công lý
Như đã kể với quý vị độc giả trong bài viết  CHÍNH TRỊ, TIỀN BẠC, TÌNH CẢM ĐI VÀO TÒA ÁN THÌ CÔNG LÝ SẼ GIẢM ĐI sau khi nhận được kết quả giải quyết khiếu nại lần 01 tác giả đã tiếp tục gửi đơn lên Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh để được giải quyết. Sau 03 ngày nộp đơn thì ông Nguyễn Phú (người phải thi hành án) đã chủ động liên hệ với tác giả để đàm phán về việc thi hành án. Sau hơn 02 ngày thương lượng đàm phán thì tác giả và bà NTTK đã đồng ý để cho ông Nguyễn Phú thanh toán 70% tổng số tiền phải thi hành án bằng tiền mặt tại thời điểm thỏa thuận, đồng thời bà NTTK đồng ý giải tỏa việc kê biên chiếc xe ô tô của ông Nguyễn Phú và ông NTD rút đơn khởi kiện, 30% số tiền ông Nguyễn Phú phải thi hành án sẽ chuyển sang một tài sản khác của ông Nguyễn Phú đang cũng đang bị kê biên để chờ xử lý trong một vụ án khác. Tuy kết quả không được hoàn mỹ, tuy nhiên tác giả vẫn cảm thấy vui khi đã giúp được khách hàng giải quyết được những vướng mắc pháp lý và giải quyết được khó khăn về tài chính trước mắt, cũng như vui khi công lý vẫn còn nhiều chỗ đứng trong xã hội nếu ta thực sự dũng cảm đấu tranh.

Xin chia sẻ cùng quý vị độc giả.
QUYẾT QUYỀN

Friday, October 31, 2014

Chính trị, tiền bạc và tình cảm đi vào Tòa án thì công lý sẽ ra đi

Đại biểu: NGUYỄN BÁ THUYỀN
Ngày 11 tháng 8 năm 2014, TAND thành phố V ban hành thông báo thụ lý vụ án số 1600/TB-TA để thụ lý giải quyết vụ án tranh chấp “hợp đồng mua bán tài sản’ giữa nguyên đơn là ông NTD (ông D ủy quyền cho bà Lê Thị H), bị đơn là ông Nguyễn Phú, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là bà NTTK.

Xin nói rõ hơn mối quan hệ tranh chấp ở đây là do ông Nguyễn Phú vay tiền của bà NTTK với số tiền 500.000.000 đồng nhưng đến hạn không trả nên bà NTTK đã tiến hành khởi kiện ông Nguyễn Phú và đã có bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật của Tòa án tuyên buộc ông Phú phải trả cho bà NTTK số tiền hơn 600.000.000 đồng. Sau khi có bản án bà NTTK đã tiến hành xác minh điều kiện thi hành án của ông Nguyễn Phú thì phát hiện ông Nguyễn Phú đang sở hữu một chiếc xe oto có giá trị khoảng 800.000.000 đồng. Tuy nhiên trong quá trình thi hành án thì phía ông Nguyễn Phú và ông NTD xác lập với nhau một hợp đồng mua bán chiếc xe nói trên với mục đích tạo ra tranh chấp để kéo dài việc thi hành án đối với số tiền ông Phú còn nợ bà NTTK. Tác giả tham gia vụ án với tư cách là người đại diện theo ủy quyền của bà NTTK.

Sunday, October 26, 2014

Những điều Luật sư cần nhớ

luật sư
hình ảnh minh họa
Điều 1: Đừng bao giờ tin hoàn toàn những lời trình bày của khách hàng khi đến nhờ tư vấn
Khi khách hàng tìm đến luật sư để tư vấn, thông thường khách hàng thường chỉ trình bày những điểm đúng, những điểm có lợi cho mình và thường “nói xấu” bên còn lại vì vậy luật sư cần phải xem xét, cân nhắc trước những thông tin khách hàng cung cấp để có hướng tư vấn chính xác nhất.

Điều 2: Đừng bao giờ chủ quan trước những quan hệ pháp luật tranh chấp đơn giản
Có những quan hệ pháp luật tranh chấp tưởng chừng như rất đơn giản và có thể dễ dàng giải quyết nhưng khi đi vào giải quyết thì thường phát sinh nhiều vấn đề mới hoặc do chủ quan nên quá trình giải quyết vụ án luật sư thường mắc phải những lỗi nhỏ dẫn đến những hậu quả khó lường, vì vậy là Luật sư thì tuyệt đối không được đánh giá vụ án mình đang thực hiện là đơn giản mà phải cẩn trọng đối với mọi chi tiết có trong hồ sơ vụ án và cẩn trọng đối với mọi hoạt động của mình khi tham gia giải quyết vụ án.